Xác định số thuế sử dụng đất phi nông nghiệp mà người sử dụng đất phải nộp?

182 lượt xem
Gia đình tôi và gia đình ông A hàng xóm đang sử dụng 2 thửa đất ở liền kề nhau. Hai thửa đất này có diện tích bằng nhau (230 m2) và có nguồn gốc giống nhau ở chỗ đều nhận chuyển nhượng từ một chủ sử dụng đất cũ, thời điểm nhận chuyển nhượng giống nhau (năm 2010). Gia đình ông A đã có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất trên. Gia đình tôi, do còn đang có tranh chấp trong nội bộ gia đình nên hiện vẫn chưa làm được thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với thửa đất của mình được. Hai gia đình ông A và gia đình tôi nhận được thông báo đóng thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Tuy nhiên, chúng tôi rất thắc mắc tại sao số tiền thuế mà hai gia đình phải đóng lại khác nhau. Vậy xin cho hỏi do đâu có sự khác nhau như vậy? Liệu có khi nào cơ quan thuế tính nhầm cho gia đình chúng tôi không?
Ban biên tập
07-10-2020

- Liên quan đến vấn đề bạn hỏi, theo các quy định pháp luật tại các Điều 5, Điều 6, Điều 7 Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ngày 17 tháng 06 năm 2010, số thuế sử dụng đất phi nông nghiệp mà người sử dụng đất phải nộp được xác định dựa trên các căn cứ là giá tính thuế và thuế suất. Trong đó, giá tính thuế đối với đất được xác định bằng diện tích đất tính thuế nhân với giá của 1m2 đất; thuế suất đối với đất ở bao gồm cả trường hợp sử dụng để kinh doanh áp dụng theo biểu thuế lũy tiến từng phần được quy định như sau:

 

Bậc thuế

Diện tích đất tính thuế (m2)

Thuế suất (%)

1

Diện tích trong hạn mức

0,03

2

Phần diện tích vượt không quá 3 lần hạn mức

0,07

3

Phần diện tích vượt trên 3 lần hạn mức

0,15

 


- Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 6 Nghị định 53/2011/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 01 tháng 07 năm 2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, cách áp dụng hạn mức đất ở để tính thuế đối với gia đình bạn và gia đình ông A là khác nhau do việc sử dụng đất của hai gia đình khác nhau ở chỗ chưa có và đã có Giấy chứng nhận. Do đó, dẫn đến số thuế phải nộp là khác nhau. Cụ thể:

Điều 6. Hạn mức đất ở tính thuế

2. Hạn mức đất ở làm căn cứ tính thuế đối với trường hợp đất ở đang sử dụng trước ngày 01 tháng 01 năm 2012 được xác định như sau:

a) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã có quy định về hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở và diện tích đất ở trong Giấy chứng nhận được xác định theo hạn mức công nhận đất ở thì áp dụng hạn mức công nhận đất ở để làm căn cứ tính thuế. Trường hợp hạn mức công nhận đất ở đó thấp hơn hạn mức giao đất ở hiện hành thì áp dụng hạn mức giao đất ở hiện hành để làm căn cứ tính thuế;

b) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã có quy định về hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở và diện tích đất ở trong Giấy chứng nhận được xác định theo hạn mức giao đất ở thì áp dụng hạn mức giao đất ở để làm căn cứ tính thuế. Trường hợp hạn mức giao đất ở đó thấp hơn hạn mức giao đất ở hiện hành thì áp dụng hạn mức giao đất ở hiện hành để làm căn cứ tính thuế;

c) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa quy định về hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở thì toàn bộ diện tích đất ở ghi trên Giấy chứng nhận được xác định là diện tích đất ở trong hạn mức;

d) Trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận thì không áp dụng hạn mức. Khi người sử dụng đất đã được cấp Giấy chứng nhận thì hạn mức đất ở làm căn cứ tính thuế áp dụng theo nguyên tắc quy định tại các điểm a, b, c khoản này.”

- Ngoài ra, vấn đề trên còn được hướng dẫn tại điểm b mục 1.4 khoản 1 Điều 5 Thông tư 153/2011/TT-BTC ngày 11 tháng 11 năm 2011 do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành hướng dẫn về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Cụ thể:

Điều 5. Diện tích đất tính thuế:

….

1.4. Hạn mức đất ở làm căn cứ tính thuế.

….

b) Trường hợp đất ở đang sử dụng trước ngày 01/01/2012 thì hạn mức đất ở làm căn cứ tính thuế được xác định như sau:

b1) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã có quy định về hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở và diện tích đất ở trong Giấy chứng nhận được xác định theo hạn mức công nhận đất ở thì áp dụng hạn mức công nhận đất ở để làm căn cứ tính thuế. Trường hợp hạn mức công nhận đất ở đó thấp hơn hạn mức giao đất ở hiện hành thì áp dụng hạn mức giao đất ở hiện hành để làm căn cứ tính thuế;

b2) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã có quy định về hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở và diện tích đất ở trong Giấy chứng nhận được xác định theo hạn mức giao đất ở thì áp dụng hạn mức giao đất ở để làm căn cứ tính thuế. Trường hợp hạn mức giao đất ở đó thấp hơn hạn mức giao đất ở hiện hành thì áp dụng hạn mức giao đất ở hiện hành để làm căn cứ tính thuế;

b3) Trường hợp tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận mà Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chưa quy định về hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận đất ở thì toàn bộ diện tích đất ở ghi trên Giấy chứng nhận được xác định là diện tích đất ở trong hạn mức;

b4) Trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận thì không áp dụng hạn mức. Toàn bộ diện tích đất ở tính thuế của người nộp thuế áp dụng theo thuế suất đối với diện tích đất trong hạn mức.

Trường hợp này, đất đang sử dụng phải là đất ở theo quy định tại Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Khi người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận thì hạn mức đất ở làm căn cứ tính thuế áp dụng theo nguyên tắc quy định tại các điểm b1, b2, b3 tiết 1.4 khoản này.”

 

Lưu ý : Việc đưa ra ý kiến tư vấn của Trogiupluat căn cứ vào các quy định của pháp luật tại thời điểm tư vấn và chỉ mang tính chất tham khảo. Khi tham khảo, người dùng cần kiểm tra lại quy định của pháp luật hiện hành để đảm bảo tính chính xác.

Bình luận