Trường hợp chấm dứt tư cách thành viên công ty TNHH 2TV trở lên
1.7K lượt xem
Thành viên công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên chấm dứt tư cách thành viên khi nào?
Ban biên tập
20-07-2020
Tư cách thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành viên trở lên chấm dứt hoàn toàn nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, thành viên là cá nhân chết, thành viên là tổ chức đã giải thể hoặc phá sản.
Thứ hai, thành viên chuyển nhượng hết hoặc tặng cho toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác.
Thứ ba, thành viên sử dụng toàn bộ phần vốn góp để thanh toán nợ cho người khác.
Thứ tư, thành viên chưa góp vốn theo cam kết khi thành lập công ty đương nhiên không còn là thành viên của công ty.
Thứ năm, công ty mua lại phần vốn góp của thành viên theo Điều 52 của Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Thứ sáu, công ty TNHH hai thành viên trở lên chấm dứt sự tồn tại (giải thể hoặc phá sản) thì tư cách thành viên của tất cả các thành viên sẽ chấm dứt.
Thứ bảy, các trường hợp chấm dứt tư cách thành viên do Điều lệ công ty quy định. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định thì quy định của Điều lệ công ty phải phù hợp với quy định của pháp luật doanh nghiệp.
Trường hợp thành viên chuyển nhượng hoặc tặng cho một phần vốn góp cho người khác thì thành viên đó không chấm dứt tư cách thành viên, thành viên sẽ có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với phần vốn góp còn lại trong công ty.
Lưu ý, theo khoản 3 Điều 56 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, trường hợp cá nhân là thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên bị tạm giam, bị kết án tù hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề theo quy định của Bộ luật hình sự, thành viên đó ủy quyền cho người khác tham gia Hội đồng thành viên công ty. Quy định này gián tiếp cho thấy rằng, thành viên bị tạm giam, bị kết án tù hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề theo quy định của Bộ luật hình sự sẽ không chấm dứt tư cách thành viên; mà thành viên đó được ủy quyền cho người khác đại diện cho mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong công ty.
Lưu ý : Việc đưa ra ý kiến tư vấn của Trogiupluat căn cứ vào các quy định của pháp luật tại thời điểm tư vấn và chỉ mang tính chất tham khảo. Khi tham khảo, người dùng cần kiểm tra lại quy định của pháp luật hiện hành để đảm bảo tính chính xác.