Cổ đông có quyền yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp nào?
603 lượt xem
Tháng 5/2015, Công ty
cổ phần X (Công ty X) tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông thường niên. Tuy nhiên,
cuộc họp không được diễn ra vì lý do công ty không gửi thông báo mời họp Đại
hội đồng cổ đông và các tài liệu cuộc họp trên trang thông tin điện tử của Công
ty X. Cuộc họp lần thứ hai được tổ chức nhưng cũng không thỏa mãn điều kiện quy
định.
Ngày 28/06/2015, Công
ty X đã tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông lần ba với 164 cổ đông dự họp đại
diện cho 45,5% tổng số phiếu có quyền biểu quyết của công ty. Cuộc họp đã thông
qua Nghị quyết số 01/2015/NQ-ĐHĐCĐ. Tuy nhiên, ngày 21/07/2015, các cổ đông của
Công ty X là bà Quỳnh, ông Trung, ông Thông và ông Mạnh (nguyên đơn) đã khởi
kiện yêu cầu Tòa án hủy bỏ Nghị quyết số 01/2015/NQ-ĐHĐCĐ.
Tại phiên tòa, các
nguyên đơn trình bày:
Thứ nhất, thông báo
mời họp Đại hội đồng cổ đông không được gửi cho tất cả các cổ đông có quyền dự
họp là vi phạm quy định của pháp luật doanh nghiệp.
Thứ hai, Ngân hàng Y
(cổ đông của Công ty X) đã ủy quyền cho ông Đình tham dự cuộc họp Đại hội cổ
đông nhưng trên giấy ủy quyền không ghi số cổ phần được ủy quyền là trái với
quy định của pháp luật.
Thứ ba, Biên bản họp
Đại hội đồng cổ đông ngày 29/06/2015 đăng trên Website của Công ty X có sự khác
biệt so với biên bản họp ngày 28/06/2015. Cụ thể, Biên bản ngày 29/06/2015 đăng
trên Website của công ty đã bỏ Điều 17 về việc biểu quyết thông qua nghị quyết
Đại hội đồng cổ đông với tỷ lệ là 51.47% tổng số biểu quyết. Ngoài ra, cuộc họp
Đại hội đồng cổ đông ngày 28/06/2015 đã thống nhất cử hai thư ký của cuộc họp
là ông Thanh và bà Linh, nhưng biên bản cuộc họp chỉ có ông Thanh ký.
Ông Phát - người đại
diện theo ủy quyền của Công ty X trình bày:
Nghị quyết số
01/2015/NQ-ĐHĐCĐ ngày 28/06/2015 của Đại hội đồng cổ đông đã được thông qua,
nếu muốn hủy thì phải triệu tập lại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, còn Chủ tịch
Hội đồng quản trị của công ty là ông Minh không có quyền hủy nghị quyết này.
Đồng tình với ý kiến
của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định rằng Công ty X đã vi phạm quy định về
thủ tục tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông và tuyên hủy Nghị quyết số
01/2015/NQ-ĐHĐCĐ để tiến hành lại theo quy định của pháp luật.
Cho hỏi: Các vi phạm
về trình tự, thủ tục tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông của Công ty X có phải
là căn cứ để nhóm cổ đông yêu cầu Tòa án hủy bỏ Nghị quyết số 01/2015/NQ-ĐHĐCĐ
hay không?
Ban biên tập
28-09-2020
Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông khi được thông qua hợp lệ
sẽ có giá trị thực thi những nội dung thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ
đông, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của công ty, cổ đông và cả bên thứ ba. Chính
vì vậy, khi Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông được thông qua nhưng không phù hợp
với quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty thì có thể sẽ không có
hiệu lực thực thi.
Theo quy định của Điều
147 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, trong thời hạn 90 ngày, kể từ
ngày nhận được biên bản họp Đại hội đồng cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm
phiếu lấy ý kiến Đại hội đồng cổ đông, cổ đông, nhóm cổ đông quy định tại khoản
2 Điều 114 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa
án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ nghị quyết hoặc một phần nội dung nghị quyết
của Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp sau đây:
(i) Trình tự và thủ tục triệu tập họp và ra quyết định của
Đại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng theo quy định của Luật này và Điều lệ
công ty, trừ trường hợp nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông được thông qua bằng
100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết (khoản
2 Điều 148 của Luật Doanh nghiệp năm 2014).
(ii) Nội dung nghị quyết vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ
công ty.
Trong vụ việc này, nhiều ý kiến của nguyên đơn về việc Công
ty X vi phạm các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục tổ chức họp Đại
hội đồng cổ đông là có cơ sở, đặc biệt là các vi phạm sau:
Thứ nhất, thông báo mời họp Đại hội đồng cổ đông Công ty X
không được gửi cho tất cả các cổ đông có quyền dự họp:
Theo Điều
139 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, người triệu tập họp Đại hội đồng
cổ đông phải gửi thông báo mời họp đến tất cả các cổ đông trong Danh sách cổ
đông có quyền dự họp chậm nhất 10 ngày trước ngày khai mạc nếu Điều lệ công ty
không quy định thời hạn dài hơn. Thông báo được gửi bằng phương thức bảo đảm
đến được địa chỉ liên lạc của cổ đông; đồng thời đăng trên trang thông tin điện
tử của công ty và đăng báo hằng ngày của trung ương hoặc địa phương, khi xét
thấy cần thiết theo quy định của Điều lệ công ty.
Danh sách cổ đông có quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông được
lập dựa trên sổ đăng ký cổ đông của công ty. Danh sách cổ đông có quyền dự họp
Đại hội đồng cổ đông được lập không sớm hơn 05 ngày trước ngày gửi giấy mời họp
Đại hội đồng cổ đông nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn dài hơn.[1]
Trên thực tế, cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên của
Công ty X được triệu tập đến lần thứ ba. Mặc dù cuộc họp lần thứ nhất và lần
thứ hai không đáp ứng điều kiện tiến hành bởi có nhiều cổ đông không đi họp.
Tuy nhiên, điều này không thể loại trừ quyền được dự họp Đại hội đồng cổ đông
lần thứ ba của họ. Hay nói cách khác, việc người triệu tập họp Đại hội đồng cổ
đông không gửi thông báo mời họp là vi phạm quy định của Luật Doanh nghiệp năm
2014.
Trong trường hợp này, giả sử cuộc họp Đại hội đồng cổ đông
lần thứ ba của Công ty X được tổ chức đúng trình tự, thủ tục theo quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Điều lệ công ty (thông báo mời họp được gửi cho
tất cả cổ đông) thì những cổ đông không dự họp sẽ mất đi quyền biểu quyết của
mình và không có cơ sở để yêu cầu Tòa án hủy bỏ Nghị quyết số 01/2015/NQ-ĐHĐCĐ.
Bởi lẽ: (i) cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông lần thứ ba được tiến hành không
phụ thuộc vào tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp;[2](ii) điều kiện thông qua nghị quyết của Đại hội đồng cổ
đông là dựa trên tổng số phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông “dự họp”, cổ đông
không dự họp sẽ chịu ràng buộc bởi nghị quyết được các cổ đông dự họp bỏ phiếu
thông qua.[3]
Thứ hai, việc ghi biên bản họp Đại hội đồng cổ đông của Công
ty X
Theo Điều
146 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, cuộc họp Đại hội đồng cổ đông
phải được ghi biên bản và có thể ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện
tử khác. Biên bản phải lập bằng tiếng Việt, có thể lập thêm bằng tiếng nước
ngoài và có các nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên, địa chỉ trụ sở chính, mã số doanh nghiệp;
b) Thời gian và địa điểm họp Đại hội đồng cổ đông;
c) Chương trình và nội dung cuộc họp;
d) Họ, tên chủ tọa và thư ký;
đ) Tóm tắt diễn biến cuộc họp và các ý kiến phát biểu tại Đại
hội đồng cổ đông về từng vấn đề trong nội dung chương trình họp;
e) Số cổ đông và tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự
họp, phụ lục danh sách đăng ký cổ đông, đại diện cổ đông dự họp với số cổ phần
và số phiếu bầu tương ứng;
g) Tổng số phiếu biểu quyết đối với từng vấn đề biểu quyết,
trong đó ghi rõ phương thức biểu quyết, tổng số phiếu hợp lệ, không hợp lệ, tán
thành, không tán thành và không có ý kiến; tỷ lệ tương ứng trên tổng số phiếu biểu
quyết của cổ đông dự họp;
h) Các vấn đề đã được thông qua và tỷ lệ phiếu biểu quyết
thông qua tương ứng;
i) Chữ ký của chủ tọa và thư ký.
Biên bản được lập bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài đều có
hiệu lực pháp lý như nhau. Trường hợp có sự khác nhau về nội dung biên bản
tiếng Việt và tiếng nước ngoài thì nội dung trong biên bản tiếng Việt có hiệu
lực áp dụng.
Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông phải làm xong và thông qua
trước khi kết thúc cuộc họp. Chủ tọa và thư ký cuộc họp phải liên đới chịu
trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung biên bản.
Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông phải được gửi đến tất cả cổ
đông trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc họp; việc gửi biên bản
kiểm phiếu có thể thay thế bằng việc đăng tải lên trang thông tin điện tử của
công ty (nếu có). Biên bản họp Đại hội đồng cổ đông, phụ lục danh sách cổ đông
đăng ký dự họp, nghị quyết đã được thông qua và tài liệu có liên quan gửi kèm
theo thông báo mời họp phải được lưu giữ tại trụ sở chính của công ty.
Xem xét quy định của Điều
146 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì có thể nhận định, biên
bản họp Đại hội đồng cổ đông ngày 29/06/2015 của Công ty X có nhiều vấn đề, cụ
thể:
Một là, cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 28/06/2015 đã
thống nhất cử hai thư ký của cuộc họp là ông Thanh và bà Linh. Tuy nhiên, biên
bản cuộc họp chỉ có ông Thanh ký.
Hai là, biên bản đăng trên Website của Công ty X có sự khác biệt
so với biên bản họp ngày 28/06/2015, cụ thể, biên bản ngày 29/06/2015 đăng trên
Website của công ty đã bỏ Điều 17 về việc biểu quyết thông qua nghị quyết Đại
hội đồng cổ đông với tỷ lệ là 51.47% tổng số biểu quyết.
Như vậy, việc Tòa án tuyên hủy Nghị quyết 01/2015/NQ-ĐHĐCĐ để
tiến hành lại theo quy định của pháp luật là có cơ sở. Ý kiến của ông Phát
(người đại diện theo ủy quyền của Công ty X) không thể chối bỏ cho việc Công ty
X đã vi phạm quy định về trình tự, thủ tục tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông.
Việc tiến hành lại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông của Công ty X sẽ mất thời
gian, tiền bạc của công ty, cổ đông, người quản lý và bên liên quan khác. Tuy
nhiên, thực thi nghị quyết Đại hội đồng cổ đông sẽ ảnh hưởng đến lợi ích trực
tiếp của cổ đông và công ty, cho nên Công ty X phải tiến hành họp lại Đại hội
đồng cổ đông.
[3]
Trường hợp cuộc họp triệu tập lần thứ hai không
đủ điều kiện tiến hành thì được triệu tập họp lần thứ ba trong thời hạn 20
ngày, kể từ ngày dự định họp lần thứ hai, nếu Điều lệ công ty không quy định
khác. Trường hợp này, cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông được tiến hành không
phụ thuộc vào tổng số phiếu biểu quyết của các cổ đông dự họp. Theo khoản
1 và khoản 2 Điều 144 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì điều
kiện thông qua nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông là dựa trên tổng số phiếu
biểu quyết của tất cả cổ đông dự họp.
Lưu ý : Việc đưa ra ý kiến tư vấn của Trogiupluat căn cứ vào các quy định của pháp luật tại thời điểm tư vấn và chỉ mang tính chất tham khảo. Khi tham khảo, người dùng cần kiểm tra lại quy định của pháp luật hiện hành để đảm bảo tính chính xác.