Pháp luật về điều kiện và thời gian được hưởng chế độ thai sản?
185 lượt xem
Bên
tranh chấp: Bà L
Bên
tranh chấp 2: Công ty TNHH xây dựng T
Ngày
01/10/2009, bà L có ký hợp đồng lao động số: 07/2009 với Công ty TNHH xây dựng
T do ông T làm Giám đốc. Vào tháng 5/2016, bà sinh con nên nghỉ sinh theo chế độ
từ tháng 5/2016 đến tháng 9/2016, có hưởng chế độ bảo hiểm thai sản theo quy định
của Luật Bảo hiểm xã hội nhưng vì lý do Công ty còn nợ tiền của Bảo hiểm xã hội
nên bảo hiểm không giải quyết chế độ cho bà. Tháng 12/2016, Bảo hiểm xã hội thị
xã N đã thực hiện chuyển tiền trợ cấp thai sản theo danh sách đề nghị giải quyết
chế độ ốm đau, thai sản đã được bộ phận chế độ Bảo hiểm xã hội duyệt đối với
Công ty T kịp thời khi đơn vị đề nghị, đảm bảo quyền lợi cho bà L với số tiền:
9.600.000 đồng nhưng Công ty không thanh toán lại cho bà.
Tháng
11/2017 bà nộp đơn khởi kiện tại Tòa án, ngày 22/3/2018 Công ty có trả được cho
bà số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) và đến nay không tiếp tục trả số tiền
còn lại. Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH Xây dựng T phải trả cho bà số
tiền còn lại là: 6.600.000 đồng (Sáu triệu sáu trăm nghìn đồng) ngay một lần.
1.
Bà L có đáp ứng điều kiện để được hưởng chế độ thai sản hay không?
2.
Yêu cầu của bà L được giải quyết như thế nào?
3.
Thời gian hưởng chế độ thai sản khi sinh con của bà L được tính như thế nào?
Ban biên tập
13-01-2021
1. Căn cứ Điều 30 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, vì bà L làm việc theo hợp đồng lao động số 07/2009 với Công ty T nên bà là đối tượng được áp dụng chế độ thai sản.
Căn cứ điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, bà L thuộc trường hợp lao động nữ sinh con nên được hưởng chế độ thai sản. Bên cạnh đó, bà L đã làm việc tại Công ty T từ 01/10/2009 và đóng bảo hiểm xã hội hằng tháng, vào tháng 5/2016, bà sinh con nên nghỉ sinh theo chế độ đến tháng 9/2016, vì vậy, bà thỏa mãn điều kiện đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi bà sinh con.
Như vậy, từ các quy định nêu trên, bà L đã đủ điều kiện được hưởng chế độ thai sản.
2. Yêu cầu của bà được giải quyết như sau:
Căn cứ khoản 1 và điểm c khoản 3 Điều 18 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, bà L có quyền được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật này và được nhận trợ cấp bảo hiểm xã hội, cụ thể là trợ cấp thai sản kịp thời thông qua người sử dụng lao động là Công ty T.
Căn cứ khoản 4 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, Công ty T phải có trách nhiệm phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội thị xã N trả trợ cấp thai sản cho bà L.
Tuy nhiên, sau khi bảo hiểm xã hội thị xã N thực hiện chi trả bằng cách chuyển số tiền trợ cấp thai sản 9.600.000đ cho bà L thông qua Công ty T vào tháng 12/2016 thì Công ty này đã không thanh toán lại hết số tiền cho bà mà chỉ thanh toán 3.000.000 đồng. Hành vi này của Công ty T là hành vi chiếm dụng tiền hưởng bảo hiểm xã hội, cụ thể là tiền trợ cấp thai sản của bà L và đây là hành vi bị nghiêm cấm theo khoản 3 Điều 17 Luật Bảo hiểm xã hội 2014.
Như vậy, từ các quy định trên, Công ty T buộc phải trả cho bà L số tiền 6.600.000 đồng tiền trợ cấp thai sản ngay một lần.
3. Thời gian hưởng chế độ khi sinh con của bà L như sau:
Căn cứ khoản 1 Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, lao động nữ sinh con là bà L được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng.
Lưu ý: Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng.
Như vậy, thời gian nghỉ việc hưởng chế độ khi sinh con của bà L tối đa là 06 tháng.
Giả sử: Tháng 5/2016, bà L nghỉ việc hưởng chế độ khi sinh con và theo căn cứ pháp lý đã nêu ở trên thì thời gian hưởng chế độ khi sinh con của bà L tối đa là 06 tháng, như vậy, bà được nghỉ việc để hưởng chế độ này đến tháng 11/2016.
Lưu ý : Việc đưa ra ý kiến tư vấn của Trogiupluat căn cứ vào các quy định của pháp luật tại thời điểm tư vấn và chỉ mang tính chất tham khảo. Khi tham khảo, người dùng cần kiểm tra lại quy định của pháp luật hiện hành để đảm bảo tính chính xác.