Quyết định 3351/QĐ-BYT Ban hành Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng vi rút Corona mới (SARS-CoV-2)
29-07-2020
29-07-2020
- Trang chủ
- Văn bản
- 3351/QĐ-BYT
- TẢI VỀ
- THUỘC TÍNH
Bộ Y tế Số: 3351/QĐ-BYT |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày 29 tháng 07 năm 2020 |
Quyết định
VỀ VIỆC BAN HÀNH HƯỚNG DẪN CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ COVID-19 DO CHỦNG VI RÚT CORONA MỚI (SARS-COV-2)
BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ
Căn cứ Nghị định số 75/2017/NĐ-CP ngày 20/6/2017 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế;
Theo ý kiến của Hội đồng chuyên môn cập nhật, bổ sung Hướng dẫn
chẩn đoán và điều trị viêm hô hấp cấp tính do chủng vi rút Corona mới (nCoV)
được thành lập tại Quyết định số 319/QĐ-BYt ngày 06/2/2020 của Bộ trưởng;
Theo đề
nghị của Cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh- Bộ Y tế,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng vi rút Corona mới (SARS-CoV-2)” thay thế “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị viêm đường hô hấp cấp do SARS-CoV-2 (COVID-19)” ban hành kèm theo Quyết định số 1344/QĐ-BYT ngày 25/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Nơi nhận:
- Như điều 3;
- Phó TTgCP. Vũ Đức Đam- Trưởng BCĐQG
Phòng CD COVID-19 (để báo cáo);
- Quyền Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để phối hợp chỉ đạo);
- Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (để phối hợp);
- Cổng TTĐT Bộ Y tế; website Cục QLKCB;
- Lưu: VT; KCB.
KT.BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Trường Sơn
Trưởng Tiểu ban điều trị- Ban chỉ đạo QG PCD COVID-19
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Trường Sơn
Trưởng Tiểu ban điều trị- Ban chỉ đạo QG PCD COVID-19
BỘ Y TẾ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
HƯỚNG DẪN
Chẩn đoán và điều trị
COVID-19 do chủng vi rút Corona mới (SARS-Cov-2)
(Ban
hành kèm theo Quyết định số 3351/QĐ-BYT ngày 29 tháng 7 năm 2020 của Bộ trưởng
Bộ Y tế)
_________________
I. ĐẠI CƯƠNG
Vi rút Corona (CoV) là một họ
virút lây truyền từ động vật sang người và gây bệnh cho người từ cảm lạnh thông
thường đến các tình trạng bệnh nặng, đe dọa tính mạng của người bệnh như Hội chứng
hô hấp cấp tính nặng (SARS-CoV) năm 2002 và Hội chứng hô hấp Trung Đông
(MERS-CoV) năm 2012. Từ tháng 12 năm 2019, một chủng vi rút corona mới
(SARS-CoV-2) đã được xác định là căn nguyên gây dịch nhiễm trùng hô hấp cấp
tính (COVID-19) tại thành phố Vũ Hán (tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc), sau đó lan rộng
ra toàn Trung Quốc và cho tới nay hầu hết các nước trên thế giới. Ngày
11/3/2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố COVID-19 là một đại dịch toàn
cầu. Chủng SARS-CoV-2 ngoài lây truyền từ động vật sang người, còn lây trực
tiếp từ người sang người chủ yếu qua giọt bắn đường hô hấp và qua đường tiếp
xúc. Vi rút cũng có khả năng lây truyền qua đường không khí qua khí dung
(aerosol), đặc biệt tại các cơ sở y tế và những nơi đông người và ở không gian
kín. Cho tới nay, lây truyền theo đường phân-miệng chưa có bằng chứng rõ ràng.
Người bệnh COVID-19 có biểu
hiện lâm sàng đa dạng: từ nhiễm không có triệu chứng, tới những biểu hiện bệnh
lý nặng như viêm phổi nặng, suy hô hấp, sốc nhiễm trùng, suy chức năng đa cơ
quan và tử vong, đặc biệt ở những người cao tuổi, người có bệnh mạn tính hay
suy giảm miễn dịch với số lượng tế bào TCD4 giảm dưới 250 tế bào/mm3, người có
D-Dimer tăng cao hoặc có đồng nhiễm hay bội nhiễm các căn nguyên khác như vi
khuẩn, nấm.
Hiện nay chưa có thuốc đặc
hiệu và chưa có vắc xin phòng COVID-19 nên chủ yếu là điều trị hỗ trợ và điều
trị triệu chứng. Các biện pháp phòng bệnh chính là phát hiện sớm và cách ly ca
bệnh.
II. CHẨN ĐOÁN
1. Định nghĩa ca bệnh
1.1. Trường hợp bệnh nghi
ngờ
Bao gồm các trường hợp:
A. Người bệnh có sốt
và/hoặc viêm đường hô hấp cấp tính không lý giải được bằng các nguyên nhân khác.
B. Người bệnh có bất kỳ
triệu chứng hô hấp nào VÀ
có tiền sử đến/qua/ở/về
từ vùng dịch tễ* có bệnh COVID-19 trong khoảng 14 ngày trước khi khởi
phát các triệu chứng HOẶC tiếp xúc gần (**) với trường hợp
bệnh nghi ngờ hoặc xác định COVID-19 trong khoảng 14 ngày trước khi khởi phát
các triệu chứng.
* Vùng dịch tễ: được
xác định là những quốc gia, vùng lãnh thổ có ghi nhận ca mắc COVID-19 lây
truyền nội địa, hoặc nơi có ổ dịch đang hoạt động tại Việt Nam theo “Hướng dẫn
tạm thời giám sát và phòng, chống COVID-19” của Bộ Y tế và được cập nhật bởi
Cục Y tế dự phòng.
** Tiếp xúc gần: bao
gồm
- Tiếp xúc tại các cơ sở y tế,
bao gồm: trực tiếp chăm sóc người bệnh COVID-19; làm việc cùng với nhân viên y
tế mắc COVID-19; tới thăm người bệnh hoặc ở cùng phòng bệnh có người bệnh mắc
COVID-19.
- Tiếp xúc trực tiếp trong
khoảng cách ≤ 2 mét với trường hợp bệnh nghi ngờ hoặc xác định mắc COVID-19 trong
thời kỳ mắc bệnh.
- Sống cùng nhà với trường hợp
bệnh nghi ngờ hoặc xác định mắc COVID-19 trong thời kỳ mắc bệnh.
- Cùng nhóm làm việc hoặc cùng
phòng làm việc với ca bệnh xác định hoặc ca bệnh nghi ngờ trong thời kỳ mắc
bệnh.
- Cùng nhóm: du lịch, công
tác, vui chơi, buổi liên hoan, cuộc họp ... với ca bệnh xác định hoặc ca bệnh
nghi ngờ trong thời kỳ mắc bệnh.
- Di chuyển trên cùng phương
tiện (ngồi cùng hàng, trước hoặc sau hai hàng ghế) với trường hợp bệnh nghi ngờ
hoặc xác định mắc COVID-19 trong thời kỳ mắc bệnh.
1.2. Trường hợp bệnh xác
định
Là trường hợp bệnh nghi ngờ
hoặc bất cứ người nào có xét nghiệm dương tính với vi rút SARS-CoV-2 được thực
hiện bởi các cơ sở xét nghiệm do Bộ Y tế cho phép khẳng định.
III. TRIỆU CHỨNG
1. Lâm sàng
- Thời gian ủ bệnh: từ 2-14
ngày, trung bình từ 5-7 ngày.
- Khởi phát: Triệu chứng hay
gặp là sốt, ho khan, mệt mỏi và đau cơ. Một số trường hợp đau họng, nghẹt mũi,
chảy nước mũi, đau đầu, ho có đờm, nôn và tiêu chảy.
- Diễn biến:
+ Hầu hết người bệnh (khoảng
hơn 80%) chỉ sốt nhẹ, ho, mệt mỏi, không bị viêm phổi và thường tự hồi phục sau
khoảng 1 tuần. Tuy nhiên một số trường hợp không có biểu hiện triệu chứng lâm
sàng nào.
+ Khoảng 14% số bệnh nhân diễn
biến nặng như viêm phổi, viêm phổi nặng cần nhập viện, khoảng 5% cần điều trị
tại các đơn vị hồi sức tích cực với các biểu hiện hô hấp cấp (thở nhanh, khó
thở, tím tái, …), hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS), sốc nhiễm trùng,
suy chức năng các cơ quan bao gồm tổn thương thận và tổn thương cơ tim, dẫn đến
tử vong.
+ Thời gian trung bình từ khi
có triệu chứng ban đầu tới khi diễn biến nặng thường khoảng 7-8 ngày.
+ Tử vong xảy ra nhiều hơn ở
người cao tuổi, người suy giảm miễn dịch và mắc các bệnh mạn tính kèm theo. Ở
người lớn, các yếu tố tiên lượng tăng nguy cơ tử vong là tuổi cao, điểm suy đa
tạng SOFA cao khi nhập viện và nồng độ D-dimer > 1 μg/L.
- Thời kỳ hồi phục: Sau giai
đoạn toàn phát 7-10 ngày, nếu không có ARDS bệnh nhân sẽ hết sốt các dấu hiệu
lâm sàng dần trở lại bình thường và khỏi bệnh.
- Chưa có bằng chứng khác biệt
về các biểu hiện lâm sàng của COVID-19 ở phụ nữ mang thai.
- Ở trẻ em, đa số trẻ mắc
Covid-19 có các các biểu hiện lâm sàng nhẹ hơn người lớn, hoặc không có triệu
chứng. Các dấu hiệu thường gặp ở trẻ em là sốt và ho, hoặc các biểu hiện viêm
phổi. Tuy nhiên một số trẻ mắc Covid-19 có tổn thương viêm đa cơ quan tương tự
bệnh Kawasaski: sốt; ban đỏ hoặc xung huyết giác mạc, hoặc phù nề niêm mạc
miệng, bàn tay, chân; suy tuần hoàn; các biểu hiện tổn thương chức năng tim và
tăng men tim; rối loạn tiêu hóa; rối loạn đông máu và tăng các chỉ số viêm cấp.
2. Xét nghiệm cận lâm sàng
Các xét nghiệm huyết học, sinh
hóa máu thay đổi không đặc hiệu:
- Số lượng bạch cầu trong máu
có thể bình thường hoặc giảm; số lượng bạch cầu lympho thường giảm, đặc biệt
nhóm diễn biến nặng.
- Protein C phản ứng (CRP)
bình thường hoặc tăng, procalcitonin (PCT) thường bình thường hoặc tăng nhẹ.
Một số trường hợp có thể tăng nhẹ ALT, AST, CK, LDH.
- Trong các trường hợp diễn
biến nặng có các biểu hiện suy chức năng các cơ quan, rối loạn đông máu, tăng
D-dimer, rối loạn điện giải và toan kiềm.
3. X-quang và chụp cắt lớp (CT) phổi
- Ở giai đoạn sớm hoặc chỉ
viêm đường hô hấp trên, hình ảnh X-quang bình thường.
- Khi có viêm phổi, tổn thương
thường ở hai bên với dấu hiệu viêm phổi kẽ hoặc đám mờ (hoặc kính mờ) lan tỏa,
ở ngoại vi hay thùy dưới. Tổn thương có thể tiến triển nhanh trong ARDS. Ít khi
gặp dấu hiệu tạo hang hay tràn dịch, tràn khí màng phổi.
4. Xét nghiệm khẳng định
căn nguyên
- Phát hiện SARS-CoV-2 bằng kỹ
thuật real-time RT-PCR hoặc giải trình tự gene từ các mẫu bệnh phẩm.
IV. PHÂN LOẠI CÁC THỂ LÂM
SÀNG
Bệnh COVID-19 có các thể bệnh
trên lâm sàng như sau:
1. Thể không triệu chứng: là người nhiễm SARS-CoV-2 được khẳng
định bằng xét nghiệm realtime RT-PCR dương tính, nhưng không có triệu chứng lâm
sàng.
2. Mức độ nhẹ: Viêm đường
hô hấp trên cấp tính
- Người bệnh nhiễm SARS-CoV-2
có các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu như như sốt, ho khan, đau họng,
nghẹt mũi, mệt mỏi, đau đầu, đau mỏi cơ.
- Không có các dấu hiệu của
viêm phổi hoặc thiếu ô xy.
3. Mức độ vừa: Viêm phổi
- Người lớn và trẻ lớn: bị viêm phổi (sốt, ho, khó thở, thở
nhanh) và không có dấu hiệu viêm phổi nặng, SpO2 ≥ 90% khi thở khí
trời.
- Trẻ nhỏ: trẻ có ho
hoặc khó thở và thở nhanh. Thở nhanh được xác định khi nhịp thở ≥ 60 lần/phút ở
trẻ dưới 2 tháng; ≥ 50 lần/phút ở trẻ từ 2 - 11 tháng; ≥ 40 lần/phút ở trẻ từ 1
- 5 tuổi) và không có các dấu hiệu của viêm phổi nặng.
- Chẩn đoán dựa vào lâm sàng,
tuy nhiên, hình ảnh X-quang, siêu âm hoặc CT phổi thấy hình ảnh viêm phổi kẽ
hoặc phát hiện các biến chứng.
4. Mức độ nặng- Viêm phổi
nặng
- Người lớn và trẻ lớn: sốt
hoặc nghi ngờ nhiễm trùng hô hấp, kèm theo bất kỳ một dấu hiệu sau: nhịp thở
> 30 lần/phút, khó thở nặng, hoặc SpO2 ≤ 93% khi thở khí phòng.
- Trẻ nhỏ: ho hoặc khó thở và có ít nhất một trong
các dấu hiệu sau đây: Tím tái hoặc SpO2 < 90%; suy hô hấp nặng
(thở rên, rút lõm lồng ngực);
+ Hoặc trẻ được chẩn đoán viêm phổi và có
bất kỳ dấu hiệu nặng sau: không thể uống/bú được; rối loạn ý thức (li bì hoặc
hôn mê); co giật. Có thể có các dấu hiệu khác của viêm phổi như rút lõm lồng
ngực, thở nhanh (tần số thở/phút như trên).
- Chẩn đoán dựa vào lâm sàng,
chụp X-quang phổi để xác định các biến chứng.
5. Mức độ nguy kịch
5.1. Hội chứng suy hô
hấp cấp tiến triển (ARDS)
- Khởi phát: các triệu chứng hô hấp mới hoặc xấu đi
trong vòng một tuần kể từ khi có các triệu chứng lâm sàng.
- X-quang, CT scan hoặc
siêu âm phổi: hình ảnh mờ hai phế trường mà không phải do tràn dịch màng
phổi, xẹp thùy phổi hoặc các nốt ở phổi.
- Nguồn gốc của phù phổi không
phải do suy tim hoặc quá tải dịch. Cần đánh giá khách quan (siêu âm tim) để
loại trừ phù phổi do áp lực thủy tĩnh nếu không thấy các yếu tố nguy cơ.
- Thiếu ô xy máu: ở
người lớn, phân loại dựa vào chỉ số PaO2/FiO2 (P/F) và
SpO2/FiO2 (S/F) khi không có kết quả PaO2:
+ ARDS nhẹ: 200 mmHg < P/F
≤300 mmHg với PEEP hoặc CPAP ≥5 cm H2O.
+ ARDS vừa: 100 mmHg
2O).
+ ARDS nặng: P/F ≤100 mmHg với
PEEP ≥ 5 cmH2O
+ Khi không có PaO2:
S/F ≤315 gợi ý ARDS (kể cả những người bệnh không thở máy)
- Thiếu ô xy máu: ở trẻ
em: dựa vào các chỉ số OI (chỉ số Oxygen hóa: OI = MAP* × FiO2 × 100 / PaO2)
(MAP*: áp lực đường thở trung bình) hoặc OSI (chỉ số Oxygen hóa sử dụng
SpO2: OSI = MAP × FiO2 × 100 / SpO2)
cho người bệnh thở máy xâm nhập, và PaO2/FiO2 hay SpO2/FiO2
cho thở CPAP hay thở máy không xâm nhập (NIV):
+ NIV BiLevel hoặc CPAP ≥5 cmH2O
qua mặt nạ: PaO2/FiO2≤ 300 mmHg hoặc SpO2/FiO2
≤ 264
+ ARDS nhẹ (thở máy xâm nhập):
4 ≤OI<8 hoặc 5≤OSI<7,5
+ ARDS vừa (thở máy xâm nhập):
8 ≤OI<16 hoặc 7,5≤OSI<12,3
+ ARDS nặng (thở máy xâm
nhập): OI ≥16 hoặc OSI ≥12,3
5.2. Nhiễm trùng huyết
(sepsis)
- Người lớn: có dấu hiệu rối loạn chức năng các cơ
quan:
+ Thay đổi ý thức: ngủ gà, lơ mơ, hôn mê
+ Khó thở hoặc thở nhanh, độ bão hòa ô xy
thấp
+
Nhịp tim nhanh, mạch bắt
yếu, chi lạnh, hoặc hạ huyết áp, da nổi vân tím
+ Thiểu niệu hoặc vô niệu
+ Xét nghiệm có rối loạn đông
máu, giảm tiểu cầu, nhiễm toan, tăng lactate, tăng bilirubine…
- Trẻ em: khi nghi ngờ hoặc khẳng định do nhiễm
trùng và có ít nhất 2 tiêu chuẩn của hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (SIRS) và
một trong số đó phải là thay đổi thân nhiệt hoặc số lượng bạch cầu bất thường.
5.3. Sốc nhiễm trùng
- Người lớn: hạ huyết áp kéo dài mặc dù đã hồi sức
dịch, phải sử dụng thuốc vận mạch để duy trì huyết áp động mạch trung bình
(MAP) ≥65 mmHg và nồng độ lactate huyết thanh >2 mmol/L.
- Trẻ em: sốc nhiễm
trùng xác định khi có:
+ Bất kỳ tình trạng hạ huyết
áp nào: khi huyết áp tâm thu < 5 bách phân vị hoặc > 2SD dưới ngưỡng bình
thường theo lứa tuổi, hoặc (trẻ <1 tuổi: < 70 mmHg; trẻ từ 1-10 tuổi:
< 70 + 2 x tuổi; trẻ > 10 tuổi: <90 mmHg).
+ Hoặc có bất kỳ 2-3 dấu hiệu
sau: thay đổi ý thức, nhịp tim nhanh hoặc chậm (< 90 nhịp/phút hoặc >160
nhịp/phút ở trẻ nhũ nhi, và <70 nhịp/phút hoặc >150 nhịp/phút ở trẻ nhỏ);
thời gian làm đầy mao mạch kéo dài (>2 giây); hoặc giãn mạch ấm/mạch nẩy;
thở nhanh; da nổi vân tím hoặc có chấm xuất huyết hoặc ban xuất huyết; tăng
nồng độ lactate; thiểu niệu; tăng hoặc hạ thân nhiệt.
5.4. Các biến chứng
nặng- nguy kịch khác: nhồi
máu phổi, đột quỵ, sảng. Cần theo dõi sát và áp dụng các biện pháp chẩn đoán
xác định khi nghi ngờ và có biện pháp điều trị phù hợp.
V. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
- Cần chẩn đoán phân biệt viêm
đường hô hấp cấp do SARS-CoV-2 (COVID-19) với viêm đường hô hấp cấp do các tác
nhân hay gặp khác, bao gồm cả các tác nhân gây dịch bệnh nặng đã biết:
+ Vi rút cúm mùa (A/H3N2,
A/H1N1, B), vi rút á cúm, vi rút hợp bào hô hấp (RSV), rhinovirus,
myxovirrus, adenovirus.
+ Hội chứng cảm cúm do các chủng coronavirus
thông thường.
+ Các căn nguyên khuẩn vi
khuẩn hay gặp, bao gồm các các vi khuẩn không điển hình như Mycoplasma pneumonia
etc.
+ Các căn nguyên khác có thể
gây viêm đường hô hấp cấp tính nặng như cúm gia cầm A/H5N1, A/H7N9, A/H5N6,
SARS-CoV, và MERS-CoV.
- Cần chẩn đoán phân biệt các
tình trạng nặng của người bệnh (suy hô hấp, suy chức năng các cơ quan…) do các
căn nguyên khác hoặc do tình trạng nặng của các bệnh lý mãn tính kèm theo.
VI. XÉT NGHIỆM CHẨN ĐOÁN,
GIÁM SÁT VÀ BÁO CÁO CA BỆNH
- Các trường hợp bệnh nghi
ngờ, cần làm xét nghiệm khẳng định nhiễm SARS-CoV-2.
- Lấy dịch đường hô hấp trên (dịch hầu họng
& mũi họng) để xét nghiệm xác định vi rút bằng kỹ thuật realtime RT- PCR.
- Khi mẫu bệnh phẩm dịch đường
hô hấp trên âm tính nhưng vẫn nghi ngờ về lâm sàng, cần lấy dịch đường hô hấp
dưới (đờm, dịch hút phế quản, dịch rửa phế nang).
- Nếu người bệnh thở máy có
thể chỉ cần lấy dịch đường hô hấp dưới.
- Không khuyến cáo sử dụng các
xét nghiệm phát hiện kháng thể kháng SARS-CoV-2 để chẩn đoán đang mắc COVID-19.
- Những trường hợp bệnh nghi
ngờ, kể cả ở những trường hợp đã xác định được tác nhân thông thường khác, cần
làm xét nghiệm khẳng định để xác định SARS-CoV-2 ít nhất một lần.
- Cấy máu nếu nghi ngờ hoặc có
nhiễm trùng huyết, nên cấy máu trước khi dùng kháng sinh. Cần xét nghiệm các
căn nguyên vi khuẩn, vi rút khác nếu có các dấu hiệu lâm sàng nghi ngờ.
- Cần thực hiện đầy đủ các xét
nghiệm cận lâm sàng và thăm dò thường quy tùy từng tình trạng người bệnh để
chẩn đoán, tiên lượng và theo dõi người bệnh.
- Trường hợp xác định mắc
COVID-19, cần lấy mẫu bệnh phẩm dịch hô hấp và xét nghiệm nhắc lại với khoảng
cách mỗi 2-4 ngày hoặc ngắn hơn nếu cần thiết cho tới khi kết quả âm tính.
- Những trường hợp dương tính
với SARS-CoV-2 cần báo cáo Bộ Y tế hoặc CDC địa phương.
- Xác định về mặt dịch tễ học
liên quan đến các trường hợp dương tính với SARS-CoV-2 như: nơi sinh sống, nơi
làm việc, đi lại, lập danh sách những người đã tiếp xúc trực tiếp, tuân thủ
theo hướng dẫn giám sát và phòng, chống COVID-19 của Bộ Y tế.
VII. CÁC BIỆN PHÁP DỰ PHÒNG
LÂY NHIỄM TỨC THÌ
Dự phòng lây nhiễm là một bước
quan trọng trong chẩn đoán và điều trị người bệnh mắc COVID-19, do vậy cần được
thực hiện ngay khi người bệnh tới nơi tiếp đón ở các cơ sở y tế. Các biện pháp
dự phòng chuẩn phải được áp dụng ở tất cả các khu vực trong cơ sở y tế.
1. Tại khu vực sàng lọc
& phân loại bệnh nhân.
- Cho người bệnh nghi ngờ đeo
khẩu trang và hướng dẫn tới khu vực cách ly.
- Bảo đảm khoảng cách giữa các
người bệnh ≥ 2 mét.
- Hướng dẫn người bệnh che mũi
miệng khi ho, hắt hơi và rửa tay ngay sau khi tiếp xúc dịch hô hấp.
2. Áp dụng các biện pháp dự
phòng giọt bắn.
- Cần đeo khẩu trang y tế nếu
làm việc trong khoảng cách 2m với người bệnh.
- Ưu tiên cách ly người bệnh
nghi ngờ ở phòng riêng, hoặc sắp xếp nhóm người bệnh cùng căn nguyên trong một
phòng. Nếu không xác định được căn nguyên, xếp người bệnh có chung các triệu
chứng lâm sàng và yếu tố dịch tễ. Phòng bệnh cần được bảo đảm thông thoáng.
- Khi chăm sóc gần người bệnh
có triệu chứng hô hấp (ho, hắt hơi) cần sử dụng dụng cụ bảo vệ mắt.
- Hạn chế người bệnh di chuyển
trong cơ sở y tế và người bệnh phải đeo khẩu trang khi ra khỏi phòng.
3. Áp dụng các biện pháp dự
phòng tiếp xúc.
- Nhân viên y tế phải sử dụng
các trang thiết bị bảo vệ cá nhân (khẩu trang y tế, kính bảo vệ mắt, găng tay,
áo choàng) khi vào phòng bệnh và cởi bỏ khi ra khỏi phòng và tránh đưa tay bẩn
lên mắt, mũi, miệng.
- Vệ sinh và sát trùng các
dụng cụ (ống nghe, nhiệt kế) trước khi sử dụng cho mỗi người bệnh.
- Tránh làm nhiễm bẩn các bề
mặt môi trường xung quanh như cửa phòng, công tắc đèn, quạt…
- Đảm bảo phòng bệnh thoáng
khí, mở các cửa sổ phòng bệnh (nếu có).
- Hạn chế di chuyển người bệnh
- Vệ sinh tay
4. Áp dụng các biện pháp dự
phòng lây truyền qua đường không khí.
- Các nhân viên y tế khi khám,
chăm sóc người bệnh đã xác định chẩn đoán, hoặc/và làm các thủ thuật như đặt
ống nội khí quản, hút đường hô hấp, soi phế quản, cấp cứu tim phổi… phải sử
dụng các thiết bị bảo vệ cá nhân bao gồm đeo găng tay, áo choàng, bảo vệ mắt,
khẩu trang N95 hoặc tương đương.
- Nếu có thể, thực hiện thủ
thuật ở phòng riêng, hoặc phòng áp lực âm.
- Hạn chế người không liên
quan ở trong phòng khi làm thủ thuật
VIII. ĐIỀU TRỊ
1. Nguyên tắc điều trị
chung
- Phân loại người bệnh và xác
định nơi điều trị theo các mức độ nghiêm trọng của bệnh:
+ Các trường hợp bệnh nghi ngờ
(có thể xem như tình trạng cấp cứu): cần được khám, theo dõi và cách ly ở khu
riêng tại các cơ sở y tế, lấy bệnh phẩm đúng cách để làm xét nghiệm đặc hiệu
chẩn đoán xác định.
+ Trường hợp bệnh xác định cần
được theo dõi và điều trị cách ly hoàn toàn.
+ Ca bệnh nhẹ (viêm đường
hô hấp trên, viêm phổi nhẹ) điều trị tại các khoa phòng thông thường.
+ Ca bệnh nặng (viêm phổi
nặng, nhiễm trùng huyết) cần được điều trị tại các phòng cấp cứu của các
khoa phòng hoặc hồi sức tích cực.
+ Ca bệnh nặng-nguy kịch: (suy
hô hấp nặng, ARDS, sốc nhiễm trùng, suy đa cơ quan) cần được điều trị hồi
sức tích cực.
- Do chưa có thuốc đặc hiệu, điều
trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng là chủ yếu.
- Cá thể hóa các biện pháp
điều trị cho từng trường hợp, đặc biệt là các ca bệnh nặng-nguy kịch.
- Có thể áp dụng một số phác
đồ điều trị nghiên cứu được Bộ Y tế cho phép. bệnh.
- Theo dõi, phát hiện và xử
trí kịp thời các tình trạng nặng, biến chứng của bệnh.
2. Các biện pháp theo dõi
và điều trị chung
- Nghỉ ngơi tại giường, phòng
bệnh cần được đảm bảo thông thoáng, có thể sử dụng hệ thống lọc không khí hoặc
các biện pháp khử trùng phòng bệnh khác như đèn cực tím (nếu có).
- Vệ sinh mũi họng, có thể giữ
ẩm mũi bằng nhỏ dung dịch nước muối sinh lý, xúc miệng họng bằng các dung dịch
vệ sinh miệng họng thông thường.
- Giữ ấm
- Uống đủ nước, đảm bảo cân
bằng dịch, điện giải.
- Thận trọng khi truyền dịch
cho người bệnh viêm phổi nhưng không có dấu hiệu của sốc.
- Đảm bảo dinh dưỡng và nâng
cao thể trạng, bổ xung vitamin nếu cần thiết. Với các người bệnh nặng - nguy
kịch, áp dụng hướng dẫn dinh dưỡng của Hội Hồi sức cấp cứu và chống độc đã ban
hành.
- Hạ sốt nếu sốt cao, có thể
dùng paracetamol liều 10-15 mg/kg/lần, không quá 60 mg/kg/ngày cho trẻ em và
không quá 2 gam/ngày với người lớn.
- Giảm ho bằng các thuốc giảm
ho thông thường nếu cần thiết.
- Đánh giá, điều trị, tiên
lượng các tình trạng bệnh lý mãn tính kèm theo (nếu có).
- Tư vấn, hỗ trợ tâm lý, động
viên người bệnh.
- Theo dõi chặt chẽ các dấu
hiệu lâm sàng, tiến triển của tổn thương phổi trên phim X-quang và/hoặc CT
phổi, đặc biệt trong khoảng ngày thứ 7-10 của bệnh, phát hiện các dấu hiệu tiến
triển nặng của bệnh như suy hô hấp, suy tuần hoàn để có các biện pháp can thiệp
kịp thời.
- Tại các cơ sở điều trị cần
có các trang thiết bị, dụng cụ cấp cứu tối thiểu: máy theo dõi độ bão hòa ô xy,
hệ thống/bình cung cấp ô xy, thiết bị thở ô xy (gọng mũi, mask thông thường,
mask có túi dự trữ), bóng, mặt nạ, và dụng cụ đặt ống nội khí quản phù hợp các
lứa tuổi.
3. Điều trị suy hô hấp
3.1. Liệu pháp ô xy và
theo dõi
- Cần cho thở ô xy ngay với
bệnh nhân viêm đường hô hấp cấp nặng có suy hô hấp, thiếu ô xy máu, sốc để đạt
đích SpO2 > 94%.
- Ở người lớn nếu có các dấu
hiệu cấp cứu (gắng sức nặng, rút lõm lồng ngực, tím tái, giảm thông khí phổi)
cần làm thông thoáng đường thở và cho thở ô xy ngay để đạt đích SpO2 ≥ 94 %
trong quá trình hồi sức. Cho thở ô xy qua gọng mũi (1-4 lít/phút), hoặc mask
thông thường, hoặc mask có túi dự trữ, với lưu lượng ban đầu là 5 lít/phút và
tăng lên tới 10-15 lít/phút nếu cần. Khi bệnh nhân ổn định hơn, điều chỉnh để
đạt đích SpO2 ≥ 90 % cho người lớn, và SpO2 ≥ 92-95% cho
phụ nữ mang thai.
- Với trẻ em, nếu trẻ có các
dấu hiệu cấp cứu như khó thở nặng, tím tái, sốc, hôn mê, co giật..., cần cung
cấp ô xy trong quá trình cấp cứu để đạt đích SpO2 ≥ 94%. Khi tình
trạng trẻ ổn định, điều chỉnh để đạt đích SpO2 ≥ 90 %.
- Theo dõi sát tình trạng
người bệnh để phát hiện các dấu hiệu nặng, thất bại với liệu pháp thở ô xy để
có can thiệp kịp thời.
3.2. Điều trị suy hô hấp
nguy kịch & ARDS
- Khi tình trạng giảm ô xy máu không được
cải thiện bằng các biện pháp thở ô xy, SpO2 ≤ 92%, hoặc/và gắng sức
hô hấp: có thể cân nhắc chỉ định thở thở ô xy dòng cao qua gọng mũi (High Flow
Nasal Oxygen), CPAP, hoặc thở máy không xâm nhập BiPAP.
- Không áp dụng biện pháp thở
máy không xâm nhập ở người bệnh có rối loạn huyết động, suy chức năng đa cơ
quan, và rối loạn ý thức.
- Cần theo dõi chặt chẽ người
bệnh để phát hiện các dấu hiệu thất bại để có can thiệp kịp thời. Nếu tình
trạng thiếu ô xy không cải thiện với các biện pháp hỗ trợ hô hấp không xâm
nhập, cần đặt ống nội khí quản và thở máy xâm nhập.
- Cần đặt ống nội khí quản bởi người có kinh
nghiệm, áp dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm qua không khí khi đặt ống nội
khí quản.
- Hỗ trợ hô hấp: áp dụng phác
đồ hỗ trợ hô hấp trong ARDS cho người lớn và trẻ em. Chú ý các điểm sau:
+ Thở máy: áp dụng chiến lược
thở máy bảo vệ phổi, với thể tích khí lưu thông thấp (4-8 ml/kg trọng lượng lý
tưởng) và áp lực thì thở vào thấp (giữ áp lực cao nguyên hay Pplateau < 30
cmH2O, ở trẻ em, giữ Pplateau < 28 cmH2O). Thể tích
khí lưu thông ban đầu 6 ml/kg, điều chỉnh theo sự đáp ứng của người bệnh và
theo mục tiêu điều trị.
+ Chấp nhận tăng CO2,
giữ đích pH ≥ 7.20.
+ Trường hợp ARDS nặng ở người
lớn, cân nhắc áp dụng thở máy ở tư thế nằm sấp 12-16 giờ/ngày (nếu có thể).
+ Có thể áp dụng chiến lược
PEEP cao cho ARDS vừa và nặng. Tùy theo độ giãn nở (compliance) của phổi để cài
đặt PEEP phù hợp.
+ Tránh ngắt kết nối người
bệnh khỏi máy thở dẫn tới mất PEEP và xẹp phổi. Nên sử dụng hệ thống hút nội
khí quản kín.
+ Ở trẻ em và trẻ sơ sinh, có
thể thở máy cao tần (HFOV-High Frequency Oscillatory Ventilation) sớm (nếu có),
hoặc khi thất bại với thở máy thông thường. Không sử dụng HFOV cho người lớn.
+ Cần đảm bảo an thần, giảm
đau thích hợp khi thở máy. Trong trường hợp ARDS vừa- nặng, có thể dùng thuốc
giãn cơ, nhưng không nên dùng thường quy.
- Kiểm soát cân bằng dịch chặt
chẽ, tránh quá tải dịch, đặc biệt ngoài giai đoạn bù dịch hồi sức tuần hoàn.
- Trường hợp thiếu ô xy nặng,
dai dẳng, thất bại với các biện pháp điều trị thông thường, cân nhắc chỉ định
và sử dụng các kỹ thuật trao đổi ô xy qua màng ngoài cơ thể (ECMO) cho từng
trường hợp cụ thể và thực hiện ở những nơi có đủ điều kiện triển khai kỹ thuật
này.
- Do ECMO chỉ có thể thực hiện
được ở một số cơ sở y tế lớn, nên trong trường hợp cân nhắc chỉ định ECMO, các
cơ sở cần liên hệ, vận chuyển người bệnh sớm và tuân thủ quy trình vận chuyển
người bệnh do Bộ Y tế quy định.
4. Điều trị sốc nhiễm trùng
Áp dụng phác đồ điều trị sốc
nhiễm trùng cho người lớn và trẻ em. Chú ý một số điểm sau:
4.1. Hồi sức dịch
- Sử dụng dịch tinh thể đẳng trương
như nước muối sinh lý hay Ringer lactat. Tránh dùng các dung dịch tinh thể
nhược trương, dung dịch Haes-steril, Gelatin để hồi sức dịch.
- Liều lượng:
+ Người lớn: truyền nhanh
250-500 ml, trong 15-30 phút đầu, đánh giá các dấu hiệu quá tải dịch sau mỗi
lần bù dịch nhanh.
+ Trẻ em: 10-20 ml/kg, truyền
tĩnh mạch nhanh trong 30-60 phút đầu, nhắc lại nếu cần thiết, đánh giá các dấu
hiệu quá tải dịch sau mỗi lần bù dịch nhanh.
- Cần theo dõi sát các dấu
hiệu của quá tải dịch trong khi hồi sức dịch như suy hô hấp nặng hơn, gan to,
nhịp tim nhanh, tĩnh mạch cổ nổi, phổi có ran ẩm, phù phổi…nếu xuất hiện, cần
giảm hoặc dừng truyền dịch.
- Theo dõi các dấu hiệu cải
thiện tưới máu: huyết áp trung bình > 65 mgHg cho người lớn và theo lứa tuổi
ở trẻ em; lượng nước tiểu (>0.5 ml/kg/giờ cho người lớn, và >1 ml/kg/giờ
cho trẻ em), cải thiện thời gian làm đầy mao mạch, màu sắc da, tình trạng ý
thức, và nồng độ lactat trong máu.
4.2. Thuốc vận mạch
Nếu tình trạng huyết động,
tưới máu không cải thiện, cần cho thuốc vận mạch sớm.
- Người lớn:
nor-adrenaline là lựa chọn ban đầu, điều chỉnh liều để đạt đích huyết áp động
mạch trung bình (MAP) ≥ 65 mmHg và cải thiện tưới máu. Nếu tình trạng huyết áp
và tưới máu không cải thiện hoặc có rối loạn chức năng tim dù đã đạt được đích
MAP với dịch truyền và thuốc co mạch, có thể cho thêm dobutamine.
- Trẻ em: adrenaline là
lựa chọn ban đầu, có thể cho dopamin, hoặc dobutamine. Trong trường hợp sốc
giãn mạch (áp lực mạch hay chênh lệch huyết áp tối đa và tối thiểu >40
mmHg), cân nhắc cho thêm nor-adrenaline. Điều chỉnh liều thuốc vận mạch để đạt
đích MAP > 50th bách phân vị theo lứa tuổi.
- Sử dụng đường truyền tĩnh
mạch trung tâm để truyền các thuốc vận mạch. Nếu không có đường truyền tĩnh
mạch trung tâm, có thể dùng đường truyền tĩnh mạch ngoại biên hoặc truyền trong
xương. Theo dõi các dấu hiệu vỡ mạch và hoại tử.
- Có thể sử dụng các biện pháp
thăm dò huyết động xâm nhập hoặc không xâm nhập tùy điều kiện tại mỗi cơ sở để
đánh giá và theo dõi tình trạng huyết động để điều chỉnh dịch và các thuốc vận
mạch theo tình trạng người bệnh.
4.3. Cấy máu và thuốc
kháng sinh phổ rộng theo
kinh nghiệm sớm trong vòng một giờ xác định sốc nhiễm trùng.
4.4. Kiểm soát đường máu, (giữ nồng độ đường máu từ 8-10
mmol/L), can xi máu, albumin máu, (truyền albumin khi nồng độ albumin < 30
g/L, giữ albumin máu ≥ 35 g/L).
4.5. Trường hợp có các
yếu tố nguy cơ suy
thượng thận cấp, hoặc sốc phụ thuộc catecholamine: có thể cho hydrocorticone
liều thấp: Người lớn hydrocortisone 50 mg tiêm tĩnh mạch mỗi 6 giờ; trẻ em 2
mg/kg/liều đầu tiên, sau đó 0,5-1,0 mg/kg mỗi 6 giờ.
4.6. Truyền khối hồng
cầu khi cần, giữ nồng
độ huyết sắc tố ≥ 10 g/dl.
5. Điều trị hỗ trợ chức
năng các cơ quan
Tùy từng tình trạng cụ thể của
mỗi người bệnh để có các biện pháp hỗ trợ thích hợp.
- Hỗ trợ chức năng thận:
+ Đảm bảo huyết động, cân bằng
nước và điện giải, thuốc lợi tiểu khi cần thiết.
+ Nếu tình trạng suy thận
nặng, suy chức năng đa cơ quan và/hoặc có quá tải dịch, chỉ định áp dụng các
biện pháp thận thay thế như lọc máu liên tục, lọc máu ngắt quãng, hoặc thẩm
phân phúc mạc tùy điều kiện của cơ sở điều trị.
- Hỗ trợ chức năng gan: nếu có
suy gan
- Điều chỉnh rối loạn đông
máu: truyền tiểu cầu, plasma tươi, các yếu tố đông máu nếu cần thiết. Nếu
D-dimer tăng từ 500- 1000 µg/L, sử dụng enoxaparine liều dự phòng; Nếu D-dimer
tăng trên 1000 µg/L, dùng enoxaparine liều điều trị.
6. Các biện pháp điều trị
khác
6.1. Thuốc kháng sinh
- Không sử dụng thuốc kháng sinh thường quy
cho các trường hợp viêm đường hô hấp trên đơn thuần.
- Với các trường hợp viêm phổi, cấy máu và
cấy đờm tìm vi khuẩn và cân nhắc sử dụng kháng sinh thích hợp theo kinh nghiệm
có tác dụng với các tác nhân vi khuẩn có thể đồng nhiễm gây viêm phổi, (tùy
theo lứa tuổi, dịch tễ, để gợi ý căn nguyên). Điều chỉnh kháng sinh thích hợp
theo kháng sinh đồ khi có kết quả phân lập vi khuẩn.
- Nếu có tình trạng nhiễm
trùng huyết, cần cho kháng sinh phổ rộng theo kinh nghiệm sớm, trong vòng một
giờ từ khi xác định nhiễm trùng huyết. Điều chỉnh kháng sinh thích hợp khi có
kết quả vi khuẩn và kháng sinh đồ.
- Các trường hợp nhiễm trùng thứ phát, tùy
theo căn nguyên, đặc điểm dịch tễ, kháng kháng sinh để lựa chọn kháng sinh
thích hợp.
6.2. Thuốc kháng vi rút
Hiện nay chưa có thuốc điều
trị đặc hiệu cho SARS-CoV-2 và bằng chứng về hiệu quả, tính an toàn của các
thuốc kháng vi rút ức chế sao chép ngược (Antiretroviral hay ARV) và các thuốc
kháng vi rút khác (như Chloroquine/Hydroxychloroquine, Remdesivir, Ribavirin).
(Bộ Y tế sẽ đưa ra khuyến cáo sau khi xem xét kết quả các thử nghiệm lâm sàng
của thế giới và Việt Nam).
6.3. Corticosteroids
toàn thân
- Không sử dụng các thuốc
corticosteroids toàn thân thường quy cho viêm đường hô hấp trên hoặc viêm phổi
do vi rút trừ khi có những chỉ định khác.
- Các trường hợp sốc nhiễm trùng, sử dụng
hydrocortisone liều thấp nếu có chỉ định (xem phần điều trị sốc nhiễm trùng).
- Tùy theo tiến triển lâm sàng và hình ảnh
X-quang phổi của từng trường hợp viêm phổi nặng, có thể sử dụng Dexamethasone
trong thời gian 5-10 ngày.
6.4. Lọc máu ngoài cơ
thể
Các trường hợp ARDS nặng
và/hoặc sốc nhiễm trùng nặng không đáp ứng hoặc đáp ứng kém với các biện pháp
điều trị thường. Cân nhắc sử dụng các biện pháp lọc máu liên tục ngoài cơ thể
bằng các loại quả lọc có khả năng hấp phụ cytokines.
6.5. Immunoglobuline
truyền tĩnh mạch (IVIG)
Tùy từng trường hợp cụ thể, có
thể cân nhắc sử dụng IVIG cho những trường hợp bệnh nặng, và/hoặc hội chứng
viêm hệ thống ở trẻ em.
6.6. Interferon
Có thể cân nhắc sử dụng
interferon cho từng trường hợp cụ thể (nếu có) hoặc các thuốc kích thích sinh
Interferon nội sinh.
6.7. Phục hồi chức năng
hô hấp
Cân nhắc điều trị phục hồi
chức năng hô hấp sớm cho các người bệnh có suy hô hấp.
6.8. Phát hiện và xử trí
các biểu hiện thần kinh và tâm thần.
- Đánh giá và điều trị mê sảng, đặc biệt
những bệnh nhân nặng: áp dụng các thang điểm đánh giá sảng, xác định và xử lý
nguyên nhân và có các biện pháp điều trị sảng thích hợp.
- Đánh giá các dấu hiệu lo âu
và trầm cảm; áp dụng các biện pháp hỗ trợ tâm lý xã hội và các can thiệp thích
hợp.
- Phát hiện và xử trí các vấn
đề về rối loạn giấc ngủ.
- Hỗ trợ sức khỏe tâm thần và
hỗ trợ tâm lý xã hội cơ bản cho tất cả những người nghi ngờ hoặc xác nhận mắc
COVID-19.
7. Dự phòng biến chứng
Với các trường hợp nặng điều
trị tại các đơn vị hồi sức tích cực, cần dự phòng các biến chứng hay gặp sau:
7.1. Viêm phổi liên quan
tới thở máy
Áp dụng và tuân thủ gói dự
phòng viêm phổi liên quan tới thở máy:
- Nên đặt ống NKQ đường miệng.
- Đặt người bệnh nằm tư thế
đầu cao 30-45 độ.
- Vệ sinh răng miệng.
- Sử dụng hệ thống hút kín, định
kỳ làm thoát nước đọng trong dây máy thở.
- Sử dụng bộ dây máy thở mới cho mỗi bệnh
nhân; chỉ thay dây máy thở khi bẩn hoặc hư hỏng trong khi người bệnh đang thở
máy.
- Thay bình làm ấm/ẩm khi bị hỏng, bẩn, hoặc
sau mỗi 5-7 ngày.
7.2. Dự phòng huyết khối
tĩnh mạch
- Người lớn hoặc trẻ lớn nhập
viện, dùng Heparine trọng lượng phân tử thấp, (liều lượng theo lứa tuổi và cân
nặng) tiêm dưới da, 2 lần/ngày nếu không có chống chỉ định.
- Nếu có chống chỉ định; sử
dụng các biện pháp cơ học.
- Theo dõi bệnh nhân COVID-19
nếu có các dấu hiệu nghi ngờ tắc mạch như đột quỵ, tắc mạch sâu, nhồi máu phổi,
hội chứng vành cấp. Nếu có các dấu hiệu nghi ngờ, cần áp dụng các biện pháp
chẩn đoán và điều trị thích hợp.
7.3. Nhiễm trùng máu
liên quan tới đường truyền trung tâm
Sử dụng bảng kiểm để theo dõi
áp dụng các gói dự phòng khi đặt đường truyền và chăm sóc đường truyền trung
tâm. Rút đường truyền trung tâm khi không cần thiết.
7.4. Loét do tỳ đè
Xoay trở người bệnh thường
xuyên
7.5. Viêm loét dạ dày do
stress và xuất huyết tiêu hóa
- Cho ăn qua đường tiêu hóa
sớm (trong vòng 24-48 giờ sau nhập viện)
- Dùng thuốc kháng H2 hoặc ức
chế bơm proton cho những người bệnh có nguy cơ xuất huyết tiêu hóa như thở máy
≥ 48 giờ, rối loạn đông máu, điều trị thay thế thận, có bệnh gan, nhiều bệnh
nền kèm theo, và suy chức năng đa cơ quan.
7.6. Yếu cơ liên quan
tới điều trị hồi sức
Khi có thể, tích cực cho vận
động sớm trong quá trình điều trị.
8. Một số quần thể đặc biệt
8.1. Phụ nữ mang thai:
Khi nghi ngờ hoặc khẳng định
nhiễm SARS-CoV-2 cần được điều trị theo các biện pháp như trên, tuy nhiên cần
chú ý tới những thay đổi sinh lý khi mang thai.
8.2. Người cao tuổi.
Người cao tuổi với các bệnh lý
nền kèm theo tăng nguy cơ mắc bệnh nặng và tử vong. Chăm sóc và điều trị cần
phối hợp các chuyên khoa, cần chú ý tới những thay đổi sinh lý ở người cao
tuổi, cũng như tương tác thuốc trong quá trình điều trị.
IX. TIÊU CHUẨN XUẤT VIỆN
1. Người bệnh được xuất
viện khi có đủ các tiêu chuẩn sau:
- Hết sốt ít nhất 3 ngày.
- Các triệu chứng lâm sàng cải
thiện, toàn trạng tốt, các dấu hiệu sinh tồn ổn định, chức năng các cơ quan
bình thường, xét nghiệm máu trở về bình thường, X-quang phổi cải thiện.
- Ba mẫu bệnh phẩm (các mẫu
lấy cách nhau ít nhất 1 ngày) xét nghiệm âm tính với SARS-CoV-2 bằng phương pháp
realtime RT-PCR.
2. Theo dõi sau xuất viện
Người bệnh cần tiếp tục được cách ly phù hợp tại nhà dưới sự giám sát giám sát của y tế cơ sở và CDC địa phương thêm 14 ngày nữa và theo dõi thân nhiệt tại nhà 2 lần/ngày, nếu thân nhiệt cao hơn 38oC ở hai lần đo liên tiếp hoặc có các dấu hiệu bất thường khác, phải đến khám lại ngay tại các cơ sở y tế.
Tệp tin văn bản
Mục lục
So sánh văn bản
...Đang xử lý dữ liệu...