Văn bản khác 22/HD-VKSTC Một số nội dung liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
22/HD-VKSTC
Văn bản khác
Còn hiệu lực
05-06-2020
05-06-2020
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số:
22/HD-VKSTC | Hà
Nội, ngày 05 tháng 6 năm 2020 |
HƯỚNG DẪN
MỘT SỐ NỘI
DUNG LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
Vụ án hành chính nói chung và vụ án hành chính
liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai nói riêng là loại án mang tính chất đặc
thù vì quan hệ giữa người khởi kiện với người bị kiện tuy bình đẳng về tố tụng
trước Tòa án nhưng trong quan hệ hành chính thì người bị kiện là người quản lý,
còn người khởi kiện là người bị quản lý. Mặt khác, người bị kiện trong vụ án
hành chính thuộc lĩnh vực đất đai là người có chức vụ trong cơ quan quản lý nhà
nước, nhiều trường hợp người bị kiện còn giữ chức vụ trong cơ quan Đảng như
Thường vụ, Phó Bí thư huyện ủy, tỉnh ủy; do đó, khi giải quyết loại án này vừa
phải đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, vừa phải đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng để góp phần ổn định tình hình chính trị tại địa phương. Thực tế trong thời
gian qua, chất lượng giải quyết nhiều vụ án hành chính về đất đai đã bảo đảm
yêu cầu, tuy nhiên cũng có không ít vụ án còn nhiều sai sót, vi phạm nghiêm
trọng, bị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm tuyên sửa, hủy án để giao về xét xử lại
dẫn đến vụ án bị kéo dài.
Thực hiện chỉ đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao hướng dẫn toàn Ngành một số nội dung sau:
I. Về đánh giá việc tuân theo pháp luật tố
tụng trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh
vực đất đai
1. Về xác định
thời hiệu khởi kiện
Khiếu nại liên quan đến lĩnh vực quản lý
nhà nước về đất đai thường là khiếu nại kéo dài, chưa được giải quyết dứt điểm
nên khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai
cần chú ý đến việc xác định thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 116 Luật
Tố tụng hành chính năm 2015 (01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết
định hành chính, hành vi hành chính; quyết định giải quyết khiếu nại). Trong
đó, việc xác định thời điểm nhận được quyết định hành chính thông qua các hình
thức giao nhận trực tiếp; nhận qua đường bưu điện; nhận qua chính quyền địa
phương cần căn cứ vào các tài liệu như biên bản giao nhận, dấu bưu điện... Trường
hợp không nhận được quyết định hành chính thì thời điểm được tính từ khi người
khởi kiện biết được có quyết định đó như: số; ngày; tháng; năm; cơ quan, người
có thẩm quyền ban hành quyết định, nội dung của quyết định mà quyết định đó làm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ.
2. Về xác định
đối tượng khởi kiện
Đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính
trong lĩnh vực đất đai bao gồm các quyết định hành chính, hành vi hành chính
liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về đất đai. Việc xác định đối tượng khởi
kiện là một trong những nội dung quan trọng khi kiểm sát giải quyết các vụ án
hành chính trong lĩnh vực đất đai; trong đó, cần chú ý một số nội dung sau:
- Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi
kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ án hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức
được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Việc xác định hành vi hành chính
khi nào là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực
hiện quản lý hành chính nhà nước, khi nào là của người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước và khi nào là không thực hiện nhiệm vụ, công vụ phải
căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong cơ quan; thời hạn thực hiện đối với
nhiệm vụ, công vụ đó và phân biệt như sau:
Trường hợp theo quy định của pháp luật,
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước, nhưng do người
trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện theo sự phân công hoặc ủy quyền, ủy nhiệm thì hành vi đó là hành vi hành chính của cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành
chính nhà nước mà không phải là hành vi hành chính của người đã thực hiện hành
vi hành chính đó.
Ví dụ: Theo quy định của pháp luật đất đai thì hồ sơ chuyển
đổi quyền sử dụng đất nộp tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Ông Nguyễn
Văn A đã nộp hồ sơ xin chuyển đổi quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân xã X
theo đúng quy định, nhưng bà Trần Thị C là cán bộ nhận hồ sơ của Ủy ban nhân
dân xã X đã trả lại hồ sơ cho ông A và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ
đó. Trong trường hợp này, việc trả lại hồ sơ cho ông A là hành vi hành chính
của Ủy ban nhân dân xã X mà không phải là hành vi hành chính của bà Trần Thị C.
- Đối với đối
tượng khởi kiện là quyết định hành chính, cần phân biệt quyết định hành chính
bị khởi kiện với quyết định hành chính mang tính nội bộ của cơ quan tổ chức như
sau:
+ Quyết định hành chính mang tính nội bộ
của cơ quan, tổ chức là quyết định không trực tiếp xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự mà chỉ mang tính chỉ đạo, điều hành, như: Quyết định
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện giải quyết dứt điểm khiếu nại của đương sự...
+ Quyết định hành chính bị kiện là quyết
định mà cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyết định hành chính đó xâm phạm
đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ, như: Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê
duyệt phương án bồi thường, Quyết định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất...
- Đồng thời, cần
xác định quyết định hành chính bị kiện là quyết định có nội dung làm ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đó có thể là quyết
định mang tính tổng thể, nhưng có danh sách kèm theo hoặc có bản quy định chi
tiết đối với từng hộ gia đình, cá nhân kèm theo, qua đó xác định được cụ thể
quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, hộ gia đình bị xâm phạm thì họ
có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với phần xác định cụ thể đó (tham khảo
Án lệ số 10/2016/AL theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao).
Ví dụ:Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
đối với những hộ gia đình tại xã X, có đất bị thu hồi làm Dự án, có nội dung:
đất sản xuất nông nghiệp là 100.000đ/m2, đất thổ cư là 1.000.000đ/m2
tổng cộng số tiền là 500 tỷ đồng, nhưng không nêu cụ thể số tiền bồi thường, hỗ
trợ cho từng hộ gia đình, thì không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành
chính.
Cũng với Quyết định trên, nhưng có danh
sách từng hộ gia đình, cá nhân kèm theo, trong đó nêu rõ gia đình ông A được
bồi thường 1 tỷ đồng cho 2.000 m2 đất, bà B được bồi thường
50.000.000 đồng cho 300 m2 đất…, thì những phần chi tiết đó của Quyết định phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
- Việc xác định quyết định hành chính là
đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính còn là căn cứ để xác định các quyết
định hành chính có liên quan đến quyết định hành chính bị khởi kiện cần được
xem xét, giải quyết theo hướng dẫn tại tiểu mục 5 mục V Công văn số 01/GĐ-TANDTC
ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao thông báo giải đáp một số vấn đề về
hình sự, dân sự, hành chính: Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có thẩm
quyền xem xét tính hợp pháp đối với tất cả các quyết định hành chính có liên
quan đến quyết định hành chính bị khởi kiện mà không phụ thuộc vào việc các
quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện.
Ví dụ: Người khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho
ông N, Quyết định giải quyết kiến nghị của Ủy ban nhân dân huyện và 05 Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp 05 người con của ông N; hủy Quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Bản án sơ thẩm
quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của người khởi kiện đối với Quyết định
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp
cho ông N và Quyết định giải quyết kiến nghị của Ủy ban nhân dân huyện do đã
hết thời hiệu khởi kiện là không đúng với nội dung hướng dẫn đã viện dẫn ở
trên. Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét tính hợp pháp của việc cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông N nên không có cơ sở đánh giá tính
hợp pháp của 05 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho 05 người con của
ông N và Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu.
3. Về xác định
thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện
Khi kiểm sát việc thụ lý vụ án hành chính
cần xem xét có hay không việc đương sự vừa khởi kiện vụ án hành chính vừa khiếu
nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo nhưng Tòa án vẫn
thụ lý. Theo đó, cần xem xét nội dung đơn khởi kiện của đương sự có cam đoan về
việc không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hay
không (theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 118 Luật Tố tụng hành chính năm
2015). Đồng thời, xem xét việc Tòa án có tiến hành xác minh, thu thập tài liệu
về việc đương sự có đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết
không. Từ đó có căn cứ xác định việc khởi kiện của đương sự đảm bảo về điều
kiện khởi kiện vụ án theo quy định của pháp luật.
4. Về thu thập
tài liệu, chứng cứ, áp dụng pháp luật của Tòa án
- Khi kiểm sát
việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ hồ
sơ để đánh giá xem việc thu thập chứng cứ của Tòa án có khách quan, đúng trình
tự, thủ tục pháp luật quy định không. Trong đó, cần lưu ý trường hợp: trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án yêu cầu đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ
nhưng đương sự chưa cung cấp mà không có lí do chính đáng; sau đó, khi Tòa án
đã ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì đương sự cung cấp tài liệu,
chứng cứ đó cho Tòa án; nhưng Hội đồng xét xử vẫn sử dụng làm chứng cứ để giải
quyết vụ án. Đây là những vi phạm thường gặp của Tòa án trong quá trình giải
quyết vụ án gây ảnh hưởng đến quyền lợi của một trong các bên đương sự. Kiểm
sát viên khi phát hiện vi phạm này phải kịp thời yêu cầu hoặc kiến nghị đối với
Tòa án.
- Đối với việc
giải quyết vụ án hành chính ở cấp phúc thẩm, cần yêu cầu Tòa án thu thập cả
những chứng cứ mà ở cấp sơ thẩm, Kiểm sát viên đã yêu cầu nhưng Tòa án không
thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ mà xét thấy cần thiết cần tiếp tục thu
thập làm cơ sở để giải quyết vụ án.
- Khiếu kiện
liên quan đến đất đai thường phức tạp, kéo dài nên khi nghiên cứu hồ sơ vụ án,
áp dụng pháp luật, Kiểm sát viên cần chú ý đến thời điểm ban hành quyết định
hành chính hoặc có hành vi hành chính bị khiếu kiện để từ đó xác định văn bản
pháp luật đang có hiệu lực tại thời điểm đó để đánh giá tính có căn cứ, hợp
pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính. Về nguyên tắc chung khi áp dụng văn bản pháp luật
theo quy định tại Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015: “Văn
bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực; Văn bản
quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản
đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp văn bản có hiệu lực trở về trước thì áp
dụng theo quy định đó”.
II. Những lưu ý đối với một số loại án cụ thể
1. Đối với vụ án
hành chính về thu hồi đất
* Khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành
chính liên quan đến thu hồi đất cần xem xét về thẩm quyền thu hồi đất; trình
tự, thủ tục thu hồi đất; xác định các trường hợp thu hồi đất; căn cứ pháp lý để
cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất. Cụ thể:
- Khi xác định
thẩm quyền thu hồi đất cần căn cứ vào quy định tại Điều 66 Luật Đất đai năm
2013. Trong đó, nội dung cần chú ý: Đối với trường hợp trong khu đất thu hồi
gồm đất của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, đất của tổ chức thì thuộc
thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Do đó, quyết định hành chính do Ủy ban
nhân dân huyện ký ban hành phải được Ủy ban nhân dân tỉnh ủy quyền bằng văn bản
cho Ủy ban nhân dân huyện quyết định thu hồi đất. Nếu không có ủy quyền bằng
văn bản thì quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân huyện được xem là trái
về mặt thẩm quyền.
- Khi kiểm sát
việc giải quyết các vụ án hành chính liên quan đến thu hồi đất, cần lưu ý một
số vi phạm phổ biến từ đó có căn cứ đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành
chính, hành vi hành chính về thu hồi đất. Cụ thể:
+ Không thông báo trước cho người có đất
bị thu hồi theo quy định Điều 67 Luật Đất đai năm 2013;
+ Không công khai phương án đền bù, tái
định cư;
+ Thu hồi đất không đúng đối tượng, không
đúng với quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét
duyệt: Trong thực tế thường xảy ra trường hợp thu hồi đất vượt quá quy hoạch sử
dụng đất thực hiện dự án được phê duyệt. Để phát hiện vi phạm này cần nghiên
cứu kĩ quy hoạch sử dụng đất của cấp có thẩm quyền như: Căn cứ lập quy hoạch,
nội dung quy hoạch, thẩm định phê duyệt quy hoạch, báo cáo thực hiện quy hoạch
và đặc biệt nghiên cứu kĩ bản đồ địa chính để xác định chênh lệch về diện tích
đất thu hồi so với diện tích đất trong quy hoạch hoặc phát hiện việc diện tích
bằng nhau nhưng sai vị trí quy hoạch được duyệt.
+ Sai lệch hồ sơ, vị trí đất thu hồi trên
thực địa: Việc xác định đúng loại đất, vị trí đất bị thu hồi có ý nghĩa quan
trọng, quyết định đến việc bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư. Để
phát hiện vi phạm trong trường hợp này, Kiểm sát viên cần chú ý:
Đất thu hồi có các loại giấy tờ của Nhà
nước ta trong các thời kì hoặc giấy tờ của cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ
cũ cấp mà người sử dụng đất không thuộc diện bị nhà nước truất quyền và họ đang
sử dụng ổn định, không có tranh chấp; hoặc người nhận chuyển nhượng lại quyền
sử dụng đất trên nhưng chưa làm thủ tục sang tên theo quy định của pháp luật,
có các loại giấy tờ quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 hoặc Điều 100
Luật Đất đai năm 2013, thì phải nghiên cứu kĩ hồ sơ địa chính trong đó đặc biệt
chú ý đến sổ địa chính, bản đồ địa chính, bản đồ giải thửa, nội dung giấy tờ
của chế độ cũ... làm cơ sở cho việc bồi thường đúng diện tích, vị trí, loại
đất. Trường hợp không có các loại giấy tờ như đã nêu trên và không có tên trong
sổ địa chính thì phải xem xét đến nguồn gốc, quá trình sử dụng đất, việc thực
hiện nghĩa vụ với Nhà nước; xem xét việc người sử dụng đất bị thu hồi có vi
phạm pháp luật về đất đai hay không.
* Đối với vụ án hành chính liên quan đến
cưỡng chế thu hồi đất, khi xem xét thẩm quyền, điều kiện, thủ tục tiến hành
cưỡng chế cần căn cứ quy định tại Điều 71 Luật Đất đai năm 2013, Điều 17 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đất đai (sau đây gọi tắt là Nghị định số 43/2014/NĐ-CP).
Kiểm sát viên cần xem xét nội dung của quyết định cưỡng chế, diện tích đất bị
cưỡng chế thu hồi có đúng với diện tích ghi trong quyết định thu hồi đất. Cụ
thể, theo quy định pháp luật, cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất được
thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Người có đất
thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã,
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm
vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục;
- Quyết định
cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết công khai tại trụ
sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất
thu hồi;
- Quyết định
cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành;
- Người bị cưỡng
chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực
thi hành. Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối không nhận quyết định cưỡng chế
hoặc vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên
bản.
2. Đối với vụ án
hành chính về bồi thường khi thu hồi đất
Đây là trường hợp phổ biến mà đương sự
khởi kiện khi bị thu hồi đất.
- Khi xem xét về
trình tự, thủ tục bồi thường khi thu hồi đất, cần lưu ý: Để phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư đúng quy định của pháp luật phải xác định mục đích
thu hồi, diện tích, loại đất, tài sản có trên đất có phù hợp với Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; biên bản kiểm kê tài sản; bảng giá đất của địa phương
và các văn bản của địa phương về chính sách đối với hộ gia đình, cá nhân khi có
đất bị thu hồi để thực hiện dự án hay không. Đồng thời, phải xem xét để làm rõ
nguồn gốc đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc trường hợp chưa được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng
nhận không, để đối chiếu với phương án đền bù xem có phù hợp hay không.
- Khi đánh giá
về nội dung của phương án bồi thường, cần xem xét lại vị trí từng loại đất trên
thực địa có đúng với vị trí loại đất ghi trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Trường hợp nhà và tài sản khác có diện tích không đúng vị trí ghi trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải điều chỉnh lại vị trí đúng theo thực
tế sử dụng để áp dụng chính sách bồi thường khi thu hồi đất. Trong trường hợp
này, cơ quan có thẩm quyền không điều chỉnh lại vị trí nhà mà vẫn áp dụng vị
trí ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để áp giá bồi thường là không
đúng quy định của pháp luật.
Kiểm sát viên cần chú ý làm rõ các lý do
mà người khởi kiện đưa ra để lý giải cho việc không đồng ý với phương án bồi
thường và những ý kiến phản biện của người bị kiện, để từ đó xác định tính hợp
lý của yêu cầu khởi kiện.
3. Đối với vụ án
hành chính khởi kiện quyết định xử phạt hành chính đối với hành vi lấn chiếm
đất công
Hiện nay, không có quy định nào về khái
niệm đất công, đất công cộng. Tuy nhiên, có thể hiểu, về bản chất thì đây đều
là đất do Nhà nước quản lý, nhưng thực tế khác nhau rất nhiều về mục đích sử
dụng. Đất công cộng là đất chỉ sử dụng vào mục đích công cộng như đường, công
viên, vỉa hè, sông suối... còn đất công có nghĩa rộng hơn, ngoài các mục đích
là đất công cộng nó còn bao gồm tất cả các mục đích khác như đất xây dựng các
công trình nhà nước, đất quốc phòng, đất an ninh, đất nghĩa trang, đất chưa sử
dụng, các quỹ đất được Nhà nước xác lập quản lý bằng văn bản...
Điểm d khoản 2 điều 10 Luật Đất đai năm
2013 quy định về các loại đất công cộng và Điều 3 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP
ngày 10/11/2014 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai (sau đây gọi tắt là Nghị định số 102/2014/NĐ-CP) thì hành vi lấn
đất là việc người đang sử dụng đất tự chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa
đất để mở rộng diện tích đất. Hành vi chiếm đất là việc sử dụng đất mà không
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc việc sử dụng đất do được Nhà
nước giao, cho thuê nhưng hết thời hạn giao, cho thuê đất không được Nhà nước
gia hạn sử dụng mà không trả lại đất hoặc sử dụng đất khi chưa thực hiện thủ
tục giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Trong trường hợp này, điều cần lưu ý là xác
định mục đích sử dụng đất mà người sử dụng lấn, chiếm là gì để đưa ra xem xét
mức xử phạt hành chính tương ứng và yêu cầu họ thực hiện khắc phục hậu quả hay
không; buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất có mang tính khả thi hay
không.
Đất lấn chiếm, sử dụng trái phép là đất
chưa được cấp, không thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình nào và hiện nay đang
thuộc quản lý của Ủy ban nhân dân xã, vì vậy đây cũng được xác định là lấn
chiếm đất công. Tuy nhiên, do Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 102/2014/NĐ-CP
không có quy định về khái niệm đất công và hành vi lấn chiếm đất công mà chỉ
quy định về mục đích sử dụng đất, đất thuộc quỹ đất công ích xã, phường, thị
trấn và hành vi lấn chiếm đất với mục đích là đất ở, đất nông nghiệp và đất phi
nông nghiệp nên trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án, cần xem xét
việc cơ quan có thẩm quyền có xác định một cách chính xác về mức xử phạt đúng
với mục đích sử dụng đất mà người thực hiện hành vi lấn chiếm và sử dụng trái
phép hay không.
4. Đối với vụ án
hành chính liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- Trong những vụ án hành chính liên quan
đến cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc đánh giá các tài liệu, chứng cứ
về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng. Trong đó cần lưu ý
về giá trị pháp lý của Sổ mục kê, Sổ kiến điền lập trước ngày 18/12/1980.
Khoản 15 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 quy
định: “Sổ mục kê đất đai là sổ được lập cho từng đơn vị xã, phường, thị trấn
để ghi các thửa đất và các thông tin về thửa đất đó”. Sổ mục kê là bộ phận cấu thành hồ sơ địa chính.
Luật Đất đai năm 2013 lại không quy định
về sổ mục kê đất đai. Tuy
nhiên, theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì hộ gia đình, cá
nhân đang sử dụng đất ổn định mà có tên trong sổ mục kê lập trước ngày 15/10/1993 (giấy tờ khác
lập trước ngày 15/10/1993 theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 100 của Luật
Đất đai năm 2013 có tên người sử dụng đất) thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất. Như
vậy, chỉ hộ gia đình, cá nhân có tên trong sổ mục kê lập trước ngày 15/10/1993 đang sử dụng
đất ổn định mới là đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
không phải nộp tiền sử dụng đất.
Theo quy định tại Điều 20 Thông tư số
25/2014/TT-BTNMT thì sổ mục
kê đất đai được lập để liệt kê các thửa đất và đối tượng chiếm đất không tạo
thành thửa đất theo kết quả đo vẽ lập, chỉnh lý bản đồ địa chính, trích đo địa
chính thửa đất trong phạm vi đơn vị hành chính cấp xã. Nội dung sổ mục kê đất đai gồm số thứ tự tờ bản đồ
địa chính, mảnh trích đo địa chính; số thứ tự thửa đất, đối tượng chiếm đất
không tạo thành thửa đất; tên người sử dụng, quản lý đất; mã đối tượng sử dụng,
quản lý đất; diện tích; loại đất (bao gồm loại đất theo hiện trạng, loại đất
theo giấy tờ pháp lý về quyền sử dụng đất, loại đất theo quy hoạch sử dụng đất
đã được phê duyệt). Sổ mục kê
đất đai được lập dưới dạng số, lưu giữ trong cơ sở dữ liệu đất đai, được in
cùng với bản đồ địa chính để lưu trữ và được sao để sử dụng đối với nơi chưa có
điều kiện khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu đất đai.
Quá trình nghiên cứu vụ án, Kiểm sát viên
cần phải xem xét và đánh giá một cách toàn diện trên cơ sở tài liệu, chứng cứ
các bên đương sự xuất trình, Tòa án thu thập được và kết quả tranh tụng trong
quá trình giải quyết vụ án để xác định sổ mục kê có phải là căn cứ xác định quyền sử dụng đất hay không.
- Cần lưu ý một số vi phạm thường gặp, là
căn cứ để đánh giá tính hợp pháp của hành vi hành chính, quyết định hành chính
trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cụ thể:
+ Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền từ chối cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với lý do đất do nhà nước
quản lý, cần căn cứ Điều 36 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định: Hộ gia đình
cá nhân đang sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà trước đây cơ quan nhà
nước đã có quyết định quản lý đối với đất đai, tài sản đó trong quá trình thực
hiện chính sách quản lý của nhà nước nhưng thực tế nhà nước chưa thực hiện
quyết định thì người đang sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được tiếp tục
sử dụng và được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
Như vậy, đất có quyết định quản lý của nhà
nước nhưng chưa thực hiện, người dân vẫn quản lý, sử dụng ổn định, phù hợp quy
hoạch và không có tranh chấp thì vẫn được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Hành vi của Ủy ban nhân dân từ chối cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trong trường hợp này là không đúng quy định pháp luật.
+ Trường hợp Ủy ban nhân dân từ chối cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi người sử dụng đã sử dụng ổn định trước
ngày 15/10/1993, phù hợp với quy hoạch và không có tranh chấp.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 100
Luật Đất đai 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì hộ gia đình cá nhân sử dụng
đất có nhà ở tuy không có giấy phép xây dựng nhưng ở ổn định trước ngày
15/10/1993 và không thuộc trường hợp lấn, chiếm đất và Ủy ban nhân dân xã xác
nhận đất không có tranh chấp, phù hợp quy hoạch và chưa có quyết định thu hồi
đất thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc Ủy ban nhân dân từ
chối cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này là không đúng
quy định pháp luật.
5. Đối với vụ án
hành chính khởi kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai
- "Tranh chấp đất đai là tranh chấp
về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ
đất đai". Theo đó,
chỉ những tranh chấp xác định ai là người có quyền sử dụng đất (gồm cả việc
tranh chấp ranh giới giữa các thửa đất) mới là tranh chấp đất đai. Việc xác
định tranh chấp nào là tranh chấp đất đai rất quan trọng, vì thủ tục giải quyết
tranh chấp đất đai và tranh chấp liên quan đến đất đai là khác nhau. Vì vậy,
khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính khởi kiện quyết định giải quyết
tranh chấp đất đai, cần phân biệt những tranh chấp không phải là tranh chấp đất
đai như: tranh chấp về giao dịch (mua bán) quyền sử dụng đất, nhà ở; tranh chấp
về di sản thừa kế là quyền sử dụng đất; tranh chấp tài sản chung là quyền sử
dụng đất giữa vợ chồng khi ly hôn.
- Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án
hành chính khởi kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai cần chú ý đến
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Trong thực tế có tranh chấp đất đai
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhưng Chủ tịch Ủy ban nhân dân lại thụ lý giải
quyết và ban hành quyết định (quyết định giải quyết tranh chấp đất đai, quyết
định giải quyết khiếu nại có nội dung giải quyết tranh chấp đất đai) là trái
thẩm quyền.
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Tranh chấp đất đai mà đương sự có
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định
tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa
án nhân dân giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Điều 18 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số loại giấy tờ theo quy định tại Điều 100
Luật đất đai theo hướng mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của
Tòa án (so với quy định tại Điều 50, Điều 136 Luật Đất đai năm 2003).
Đối với tranh chấp đất đai mà đương sự
không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại
giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 thì đương sự được lựa
chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau
đây: Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự. Đây là nội dung quy định mới, hết sức quan trọng của
Luật Đất đai năm 2013 so với quy định của Luật đất đai trước đây về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đất đai. Với quy định này, Luật Đất đai năm 2013 đã mở
rộng thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp đất đai theo quy
định của pháp luật về tố tụng dân sự. Đối với tranh chấp đất đai mà đương sự
không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại
Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 theo các quy định trước đây của pháp luật
đất đai chỉ thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền, thì nay Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết và đương sự có
quyền lựa chọn một trong hai chủ thể trên để giải quyết theo quy định của pháp
luật.
- Về xác định căn
cứ giải quyết tranh chấp đất đai khi không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng
đất
Theo quy định tại Điều 91 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP, tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không
có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều
100 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 18 của Nghị định này thì việc giải quyết
tranh chấp được thực hiện dựa theo các căn cứ sau: a) Chứng cứ về nguồn gốc và
quá trình sử dụng đất do các bên tranh chấp đất đai đưa ra; b) Thực tế diện tích
đất mà các bên tranh chấp đang sử dụng ngoài diện tích đất đang có tranh chấp
và bình quân diện tích đất cho một nhân khẩu tại địa phương; c) Sự phù hợp của
hiện trạng sử dụng thửa đất đang có tranh chấp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; d) Chính sách ưu đãi
người có công của Nhà nước; đ) Quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê
đất, công nhận quyền sử dụng đất.
Việc giải quyết tranh chấp đất đai khi
không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có giấy tờ khác thì chủ
yếu phụ thuộc vào chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng do các bên tranh
chấp đưa ra. Do không có giấy tờ về quyền sử dụng đất nên các đương sự phải
cung cấp được chứng cứ nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của mình. Do đó, quá
trình kiểm sát giải quyết vụ án hành chính cần xem xét một cách cụ thể các tài
liệu do đương sự cung cấp, đánh giá chứng cứ cần mang tính khách quan, toàn
diện.
6. Đối với vụ án
hành chính khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai
Đối với vụ án hành chính khởi kiện quyết
định giải quyết khiếu nại về đất đai cần chú ý một số vi phạm thường gặp như
sau:
- Vi phạm
về nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại lần hai (vượt quá thẩm quyền
nội dung theo quy định pháp luật)
Tại Khoản 2 Điều 40 Luật Khiếu nại năm
2011 quy định:
“Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai
phải có các nội dung sau:
a)...
h) Kết luận nội dung khiếu nại là đúng,
đúng một phần hoặc sai toàn bộ. Trường hợp khiếu nại là đúng hoặc đúng một phần
thì yêu cầu người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại sửa
đổi, hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành
chính bị khiếu nại”.
Như vậy, đối với quyết định giải quyết
khiếu nại lần hai thì người có thẩm quyền ban hành quyết định không có thẩm
quyền trực tiếp sửa đổi hay hủy bỏ toàn bộ hay một phần quyết định hành chính;
chấm dứt hành vi vi phạm hành chính mà chỉ yêu cầu người có quyết định hành
chính, hành vi hành chính bị khiếu nại sửa đổi, hủy bỏ một phần hay toàn bộ
quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính đó. Trong trường hợp quyết
định giải quyết khiếu nại có nội dung về việc trực tiếp sửa đổi, hủy bỏ quyết
định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính thì Kiểm sát viên cần phân tích và
đánh giá về thẩm quyền ban hành quyết định, từ đó đề nghị Hội đồng xét xử tuyên
hủy quyết định giải quyết khiếu nại lần hai.
- Đã có
quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật nhưng vẫn ban hành quyết
định giải quyết lại
Điều 11 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định
quyết định giải quyết khiếu nại lần hai là quyết định giải quyết khiếu nại có
hiệu lực pháp luật thì người khiếu nại không có quyền khiếu nại tiếp theo và
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không có thẩm quyền giải quyết đối với
loại đơn này. Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp vẫn thụ lý
giải quyết là vi phạm thẩm quyền về mặt nội dung vì vậy cần đề nghị Hội đồng
xét xử tuyên hủy quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp
bị khởi kiện vì luật quy định không được thụ lý và giải quyết.
- Đã hết
thời hiệu khiếu nại nhưng vẫn thụ lý, giải quyết
Điều 9 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định
thời hạn khiếu nại là 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định hành chính, trừ
trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập nơi xa hoặc vì
những trở ngại khách quan khác thì thời gian trở ngại đó không tính vào thời
hiệu khiếu nại. Vì vậy, Kiểm sát viên cần xem xét cả về thời hiệu khiếu nại,
nếu hết thời hiệu khiếu nại nhưng Ủy ban nhân dân vẫn thụ lý và giải quyết là
trái với quy định về mặt thẩm quyền, cần đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy
quyết định hành chính.
- Áp dụng
văn bản chưa có hiệu lực để giải quyết
Thực tế có nhiều vụ án, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân áp dụng văn bản pháp luật để giải quyết vấn đề xảy ra vào thời điểm
văn bản chưa có hiệu lực và văn bản đó không có hiệu lực hồi tố là vi phạm quy
định về việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Điều 156 Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Nếu phát hiện vi phạm này, Kiểm sát
viên cần đề nghị Hội đồng xét xử hủy quyết định hành chính.
Trên đây là Hướng dẫn một số nội dung liên
quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực
đất đai, đề nghị các Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quán triệt và triển khai Hướng dẫn này;
kịp thời báo cáo những vướng mắc phát sinh trong quá trình nghiên cứu, vận dụng
và thực hiện về Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 10) để trao đổi, hướng
dẫn./.