PHỤ LỤC 1
DANH
MỤC 03 THUỐC SẢN XUẤT TRONG NƯỚC ĐƯỢC CẤP GIẤY ĐĂNG KÝ LƯU HÀNH TẠI VIỆT NAM
HIỆU LỰC 03 NĂM - ĐỢT 174
(Ban hành kèm theo Quyết định số:
69/QĐ-QLD ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Cục Quản lý Dược)
1. Công ty
đăng ký: Công ty Cổ phần Dược phẩm
Boston Việt Nam (Đ/c:Số 43 đường số 8,
KCN Việt Nam - Singapore, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương
- Việt Nam)
1.1. Nhà
sản xuất: Công ty Cổ phần Dược phẩm
Boston Việt Nam (Đ/c:Số 43 đường số 8,
KCN Việt Nam - Singapore, phường Bình Hòa, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương
- Việt Nam)
STT | Tên thuốc | Hoạt chất chính - Hàm lượng | Dạng bào chế | Tuổi thọ | Tiêu chuẩn | Quy cách đóng gói | Số đăng ký |
1. | Molravir 400 | Molnupiravir 400mg | Viên nang cứng | 6 tháng | TCCS | Hộp 1, 2, 5 vỉ x 10 viên | VD3-166-22 |
2. Công ty
đăng ký: Công ty cổ phần hoá-dược phẩm Mekophar (Đ/c: 297/5 Lý Thường Kiệt, phường 15, quận
11, TP. Hồ Chí Minh - Việt Nam)
2.1. Nhà
sản xuất:
Công ty cổ phần hoá-dược phẩm Mekophar
(Đ/c: 297/5 Lý Thường Kiệt, phường 15,
quận 11, TP. Hồ Chí Minh - Việt Nam)
STT | Tên thuốc | Hoạt chất chính - Hàm lượng | Dạng bào chế | Tuổi thọ | Tiêu chuẩn | Quy cách đóng gói | Số đăng ký |
2. | Movinavir | Molnupiravir 200mg | Viên nang cứng | 6 tháng | TCCS | Hộp 10 vỉ x 10 viên | VD3-167-22 |
3. Công ty
đăng ký: Công ty TNHH Liên Doanh Stellapharm - Chi nhánh 1 (Stellapharm
J.V.Co., Ltd. - Branch 1) (Đ/c:
Số 40 Đại lộ Tự Do, khu công nghiệp Việt Nam - Singapore, phường An Phú, thị xã
Thuận An, tỉnh Bình Dương - Việt Nam)
3.1. Nhà
sản xuất:
Công ty TNHH Liên Doanh Stellapharm -
chi nhánh 1 (Stellapharm J.V.Co., Ltd. - Branch 1) (Đ/c: Số 40 Đại lộ Tự Do, khu công nghiệp Việt Nam - Singapore, phường
An Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương - Việt Nam)
STT | Tên thuốc | Hoạt chất chính - Hàm lượng | Dạng bào chế | Tuổi thọ | Tiêu chuẩn | Quy cách đóng gói | Số đăng ký |
3. | Molnupiravir Stella 400 mg | Molnupiravir 400mg | Viên nang cứng | 8 tháng | TCCS | Hộp 1 vỉ, 2 vỉ x 10 viên | VD3-168-22 |
PHỤ LỤC 2:
TRÁCH
NHIỆM CỦA CƠ SỞ SẢN XUẤT VÀ CƠ SỞ ĐĂNG KÝ PHẢI THỰC HIỆN ĐỂ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG,
AN TOÀN, HIỆU QUẢ CỦA THUỐC
(Ban hành kèm theo Quyết định số
69/QĐ-QLD ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Cục Quản lý Dược)
1. Thực hiện kiểm tra chất lượng nguyên
liệu theo tiêu chuẩn nhà sản xuất và phải đạt yêu cầu mới được đưa vào sản
xuất.
2. Tiếp tục nộp hồ sơ nghiên cứu độ ổn
định thành phẩm kèm theo dữ liệu gốc (primary data) cho đến khi khoảng thời
gian nghiên cứu độ ổn định tối thiểu thực tế đáp ứng theo hướng dẫn của ASEAN
về Cục Quản lý Dược theo hình thức thay đổi, bổ sung quy định tại Phụ lục II
Thông tư số 32/2018/TT-BYT để được xem xét và cập nhật hạn dùng theo quy định.
Trường hợp thuốc không đạt kết quả nghiên cứu độ ổn định theo đề cương trong hồ
sơ đăng ký, cơ sở phải báo cáo ngay về Cục Quản lý Dược để trình Hội đồng tư
vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc xem xét về hạn dùng
của thuốc.
3. Thực hiện việc
lấy mẫu kiểm tra chất lượng của thành phẩm theo tiêu chuẩn đã xây dựng tại các
thời điểm lấy mẫu theo dõi độ ổn định ở điều kiện dài hạn và lão hóa cấp tốc ở
0, 3, 4, 5, 6 tháng và báo cáo về Cục Quản lý Dược kèm theo dữ liệu gốc
(primary data) để giám sát. Sau thời điểm 6 tháng, thực hiện việc lấy mẫu để
theo dõi độ ổn định trong điều kiện dài hạn theo quy định hiện hành.
4. Thực hiện việc thẩm định quy trình sản
xuất trên lô thương mại theo đúng hồ sơ đăng ký thuốc đã được duyệt. Trong
trường hợp kết quả thẩm định không đáp ứng quy định phải báo cáo ngay về Cục Quản
lý Dược để trình Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu
làm thuốc xem xét, xử lý theo quy định.
5. Thực hiện theo dõi về chất lượng, an
toàn, hiệu quả của thuốc khi đưa ra lưu hành trên thị trường và báo cáo, cập
nhật thông tin cho cơ quan có thẩm quyền các thông tin về chất lượng, an toàn,
hiệu quả liên quan đến thuốc trong quá trình lưu hành trên thị trường.
PHỤ LỤC 3
TỜ
HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG TƯ VẤN CẤP GIẤY ĐĂNG KÝ LƯU HÀNH THUỐC VÀ
NGUYÊN LIỆU LÀM THUỐC PHÊ DUYỆT
(Ban hành kèm theo Quyết định số 69/QĐ-QLD
ngày 17 tháng 02 năm 2022 của Cục Quản lý Dược)
Rx “Thuốc bán theo đơn"
TỜ HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG THUỐC
<>
Thuốc này chỉ dùng theo đơn thuốc
Để xa tầm tay trẻ em.
Đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng.
1. THÀNH PHẦN
Mỗi viên ……… <>
có chứa:
Thành phần hoạt chất:
Molnupiravir
………………………………………………………X00 mg
Thành phần
tá dược:
<>
2. DẠNG BÀO CHẾ
<>
Mô tả sản phẩm:
<>
3. CHỈ ĐỊNH
Điều trị COVID-19 mức độ nhẹ đến trung
bình ở người trưởng thành dương tính với xét nghiệm chẩn đoán SARS-CoV-2 và có
ít nhất một yếu tố nguy cơ làm bệnh tiến triển nặng (Xem mục 4 phần Cách dùng, Liều dùng và mục 12 Đặc tính dược lực học các thông tin về
liều dùng và giới hạn của quần thể tham gia thử nghiệm lâm sàng).
4. CÁCH DÙNG, LIỀU DÙNG
Liều dùng
Người trưởng thành:
- Liều khuyến cáo: Uống 800 mg
molnupiravir (…… viên) mỗi 12 giờ trong 5 ngày.
- Độ an toàn và hiệu quả của molnupiravir
khi sử dụng trong khoảng thời gian dài hơn 5 ngày chưa được xác định (Xem mục
12 phần Đặc tính dược lực học).
Nên uống
molnupiravir sớm nhất có thể sau khi được chẩn đoán mắc COVID-19 và trong vòng
5 ngày kể từ khi bắt đầu khởi phát triệu chứng (Xem mục 12 phần Đặc tính dược lực học).
Quên uống thuốc:
Nếu quên một liều molnupiravir trong vòng
10 giờ so với thời điểm cần sử dụng thuốc, bệnh nhân nên uống ngay khi có thể
và tiếp tục uống thuốc theo chế độ liều thông thường.
Nếu quên một liều quá 10 giờ, bệnh nhân
không nên uống lại liều đã quên mà cần uống liều kế tiếp theo lịch trình. Không
dùng gấp đôi liều để bù lại liều đã quên.
Giới hạn
sử dụng
- Không được sử dụng molnupiravir quá 5
ngày liên tiếp.
- Không được sử dụng molnupiravir để dự
phòng trước hay sau phơi nhiễm.
- Không sử dụng để điều trị khởi đầu cho
bệnh nhân cần nhập viện do COVID-19. Do chưa ghi nhận lợi ích của molnupiravir
khi khởi đầu sử dụng ở đối tượng bệnh nhân này. Các bệnh nhân đã được sử dụng
molnupiravir trước khi nhập viện có thể tiếp tục sử dụng thuốc cho đủ liệu
trình điều trị.
Đối tượng đặc biệt:
Người cao
tuổi
Không cần hiệu chỉnh liều molnupiravir ở
bệnh nhân cao tuổi (Xem mục 13 Phần Đặc
tính dược động học).
Người bị
suy thận
Không cần hiệu chỉnh liều molnupiravir ở
bệnh nhân suy thận (Xem mục 13 Phần Đặc
tính dược động học).
Người bị
suy gan
Không cần hiệu chỉnh liều molnupiravir ở
bệnh nhân suy gan (Xem mục 13 Phần Đặc
tính dược động học).
Trẻ em
Độ an toàn và hiệu quả của molnupiravir ở
bệnh nhân dưới 18 tuổi chưa được xác định. Không có dữ liệu trên đối tượng bệnh
nhân này. Khuyến cáo không nên sử dụng
thuốc cho đối tượng này.
Cách dùng
Dùng đường uống, có thể dùng cùng hoặc
không cùng thức ăn.
Nên uống nguyên viên thuốc với đủ lượng
nước (ví dụ: 1 cốc nước). Không mở, nghiền
hoặc nhai viên thuốc.
5. CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Bệnh nhân quá mẫn với molnupiravir hay bất
kỳ thành phần nào của thuốc (Xem mục 1 phần Thành phần).
6. CẢNH BÁO VÀ THẬN TRỌNG
Cảnh báo
Dữ liệu lâm sàng của molnupiravir còn hạn
chế. Các phản ứng có hại nghiêm trọng và không mong muốn có thể xảy ra khi sử
dụng molnupiravir chưa được ghi nhận.
Độc tính đối với phôi và thai
Dựa trên nhưng phát hiện từ các nghiên cứu
về sinh sản ở động vật, molnupiravir có thể gây hại cho bào thai khi sử dụng
cho phụ nữ mang thai. Không sẵn có dữ liệu trên người về việc sử dụng
molnupiravir ở phụ nữ mang thai để đánh giá nguy cơ dị tật bẩm sinh nghiêm
trọng, sẩy thai hoặc hậu quả bất lợi cho mẹ hoặc thai nhi; do đó molnupiravir
không được khuyến cáo sử dụng trong thời kỳ mang thai.
Cần tư vấn cho những người đang độ tuổi
sinh đẻ về nguy cơ có thể xảy ra đối với thai nhi và cần sử dụng biện pháp
tránh thai phù hợp, thống nhất và hiệu quả (nếu có thể) trong khi điều trị với
molnupiravir và trong 4 ngày sau liều cuối cùng (Xem mục 4 Phần Sử dụng trong các đối tượng đặc biệt, mục
7 Phần Sử dụng thuốc cho phụ nữ mang thai
và cho con bú, mục 12 Phần Đặc tính
dược lực học).
Nếu có chỉ định lâm sàng sử dụng
molnupiravir, cần đánh giá liệu bệnh nhân trong độ tuổi sinh sản có khả năng
mang thai hay không trước khi bắt đầu điều trị. Không cần xác nhận tình trạng
mang thai ở những bệnh nhân đã triệt sản vĩnh viễn, đang đặt vòng hoặc cấy que
tránh thai, hoặc những người không thể mang thai. Đối với tất cả các bệnh nhân
khác, đánh giá xem bệnh nhân có mang thai hay không dựa trên ngày đầu tiên của
kỳ kinh nguyệt cuối ở những người có chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, đang sử dụng
biện pháp tránh thai phù hợp, thống nhất và hiệu quả hay đã thử thai âm tính.
Nên thử thai nếu bệnh nhân có chu kỳ kinh nguyệt không đều, không chắc chắn về
ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt cuối cùng hoặc không sử dụng biện pháp tránh
thai phù hợp, hiệu quả.
Độc tính đối với xương và sụn
Không được sử dụng cho bệnh nhân dưới 18
tuổi vì thuốc có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của xương và sụn. Độc tính
trên xương và sụn đã được quan sát thấy ở chuột sau khi sử dụng liều nhắc lại
(Xem mục 14 Phần Dữ liệu tiền lâm sàng).
Độ an toàn và hiệu quả của molnupiravir chưa được xác định ở quần thể bệnh nhân
nhi (Xem mục 4 Phần Cách dùng và liều
dùng).
Thận trọng
Khi sử
dụng thuốc cho phụ nữ trong độ tuổi sinh sản
Trước khi bắt đầu điều trị bằng
molnupiravir, cần đánh giá bệnh nhân trong độ tuổi sinh sản có mang thai hay
không, nếu thuốc được chỉ định lâm sàng (Xem mục 6 Phần Cảnh báo).
Tư vấn cho những phụ nữ trong độ tuổi sinh
sản sử dụng biện pháp tránh thai phù hợp và hiệu quả, có thể áp dụng trong thời
gian điều trị và trong 4 ngày sau liều molnupiravir cuối cùng (Xem mục 6 Phần Cảnh báo).
Khi sử
dụng thuốc cho nam giới trong độ tuổi sinh sản
Chưa xác định được molnupiravir có ảnh
hưởng đến tinh trùng hay không. Mặc dù nguy cơ được cho là thấp, các nghiên cứu
trên động vật đánh giá đầy đủ khả năng ảnh hưởng của molnupiravir đến con của
động vật giống đực sử dụng molnupiravir vẫn chưa hoàn thành, cần tư vấn cho nam
giới hoạt động tình dục với phụ nữ có khả năng sinh sản nên sử dụng một biện
pháp tránh thai phù hợp và hiệu quả trong thời gian điều trị và ít nhất 3 tháng
sau liều molnupiravir cuối cùng.
Nguy cơ ảnh hưởng đến sinh sản sau 3 tháng
kể từ liều molnupiravir cuối cùng cũng chưa được xác định. Các nghiên cứu tìm
hiểu nguy cơ này đang được thực hiện.
Tá dược
<>
7. SỬ DỤNG THUỐC CHO PHỤ NỮ MANG THAI VÀ
CHO CON BÚ
Phụ nữ
mang thai
Không có dữ liệu về việc sử dụng
molnupiravir ở phụ nữ mang thai. Các nghiên cứu trên động vật cho thấy độc tính
trên hệ sinh sản (Xem mục 12 phần Đặc
tính dược lực học phần dữ liệu an toàn tiền lâm sàng).
Không được sử dụng cho phụ nữ mang thai. Phụ nữ có khả năng mang thai cần sử dụng
biện pháp tránh thai hiệu quả trong thời gian điều trị và trong 4 ngày sau khi
dùng liều molnupiravir cuối cùng.
Khi các biện pháp điều trị kháng vi rút
khác không sẵn có, phụ nữ mang thai mắc COVID-19 có nguy cơ tiến triển COVID-19
nặng có thể được cân nhắc sử dụng molnupiravir sau khi được thông tin đầy đủ về
nguy cơ, đặc biệt ở bệnh nhân trong thai kỳ đã qua giai đoạn hình thành phôi
(trên 10 tuần tuổi). Trong trường hợp này, bác sĩ điều trị cần ghi chép trao
đổi về nguy cơ và lợi ích và đảm bảo bệnh nhân đồng ý với lựa chọn điều trị
này.
Phụ nữ cho
con bú
Không có dữ liệu về sự có mặt của
molnupiravir hoặc các chất chuyển hóa của thuốc, N-hydroxycytidin (NHC) trong
sữa mẹ. NHC được phát hiện trong huyết tương của chuột con đang bú mẹ sử dụng
molnupiravir (xem mục Dữ liệu dưới đây). Chưa xác định được liệu molnupiravir
có ảnh hưởng đến trẻ bú mẹ hay có ảnh hưởng đến khả năng tạo sữa của mẹ hay
không. Trên cơ sở khả năng gặp các phản ứng có hại ở trẻ nhỏ khi sử dụng
molnupiravir, không khuyến cáo cho con bú trong khi điều trị với molnupiravir
và trong vòng 4 ngày sau khi sử dụng liều thuốc cuối cùng. Phụ nữ đang cho con
bú có thể xem xét việc ngừng cho con bú và có thể cân nhắc việc hút và vắt bỏ
sữa mẹ trong quá trình sử dụng thuốc và trong vòng 4 ngày sau khi sử dụng liều
thuốc molnupiravir cuối cùng.
Dữ liệu
Khi molnupiravir được sử dụng cho chuột
đang cho con bú với liều ≥ 250 mg/kg/ngày trong nghiên cứu phát triển trước và
sau khi sinh, chất chuyển hóa NHC đã được phát hiện trong huyết tương của chuột
con đang bú mẹ.
Khả năng
sinh sản
Không có ảnh hưởng đến khả năng sinh sản,
khả năng giao phối hoặc sự phát triển phôi sớm khi molnupiravir được sử dụng
cho chuột cống cái hoặc chuột cống đực ở mức phơi nhiễm NHC tương ứng khoảng 2
và 6 lần so với mức phơi nhiễm NHC ở người với liều khuyến cáo cho người (RHD:
Recommended Human Dose)
8. ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC LÊN KHẢ NĂNG LÁI
XE, VẬN HÀNH MÁY MÓC
Chưa có đủ thông tin về ảnh hưởng của
thuốc lên khả năng lái xe và vận hành máy móc.
9.
TƯƠNG TÁC, TƯƠNG KỴ THUỐC
Tương tác
của thuốc
Hiện chưa có tương tác thuốc được xác định
dựa trên dữ liệu hạn chế hiện có. Các nghiên cứu tương tác thuốc với
molnupiravir trên lâm sàng chưa được thực hiện. Molnupiravir bị thủy phân thành
NHC trước khi được hấp thu vào hệ tuần hoàn. Sự hấp thu NHC và chất chuyển hóa
NHC-TP được thực hiện qua trung gian của cùng các con đường liên quan đến
chuyển hóa pyrimidin nội sinh. NHC không phải là chất nền của enzyme chuyển hóa
cơ bản thuốc chính hoặc chất vận chuyển chính. Do đó, molnupiravir hay NHC ít
có khả năng tương tác với thuốc sử dụng đồng thời.
Tương kỵ
của thuốc
Do không có các nghiên cứu về tính tương
kỵ của thuốc, không trộn lẫn thuốc này với các thuốc khác.
10.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Các tác dụng không mong muốn đã được quan
sát thấy trong nghiên cứu lâm sàng của molnupiravir được trình bày trong Bảng
1. Tỷ lệ tác dụng không mong muốn quan sát được trong các thử nghiệm lâm sàng
này không thể so sánh trực tiếp với tỷ lệ trong các thử nghiệm lâm sàng của một
loại thuốc khác và có thể không phản ánh tỷ lệ quan sát được trong thực tế. Các
tác dụng không mong muốn khác liên quan đến molnupiravir có thể trở nên rõ ràng
khi sử dụng rộng rãi hơn.
Nhìn chung, hơn 900 bệnh nhân đã được uống
molnupiravir 800 mg x 2 lần/ngày trong các thử nghiệm lâm sàng. Đánh giá tính
an toàn của molnupiravir chủ yếu dựa trên phân tích từ các bệnh nhân không nhập
viện mắc COVID-19 được theo dõi đến ngày 29 trong nghiên cứu Giai đoạn 3
(MOVe-OUT) (Xem Mục 12. Dược lực học,
Phần An toàn và hiệu quả lâm sàng)
Độ an toàn của molnupiravir được đánh giá
dựa trên phân tích của thử nghiệm mù đôi Giai đoạn 3 (MOVe-OUT), trong đó 1411
bệnh nhân không nhập viện mắc COVID-19 được chọn ngẫu nhiên để điều trị bằng
molnupiravir (N = 710) hoặc giả dược (N = 701) tối đa đến 5 ngày. Các biến cố
bất lợi được báo cáo khi các bệnh nhân đang tham gia nghiên cứu hoặc trong vòng
14 ngày sau khi hoàn thành/ ngừng nghiên cứu.
Việc ngừng nghiên cứu do một biến cố bất
lợi xảy ra ở 1% bệnh nhân dùng molnupiravir và 3% bệnh nhân dùng giả dược. Các
biến cố bất lợi nghiêm trọng xảy ra ở 7% bệnh nhân dùng molnupiravir và 10%
dùng giả dược; các biến cố bất lợi nghiêm trọng nhất có liên quan đến COVID-19.
Các biến cố bất lợi dẫn đến tử vong xảy ra ở 2 bệnh nhân (< 1%) dùng
molnupiravir và 12 bệnh nhân (2%) dùng giả dược. Các tác dụng không mong muốn
thường gặp nhất ở nhóm điều trị bằng molnupiravir trong MOVe-OUT được trình bày
trong Bảng 1, tất cả đều ở cấp độ 1 (nhẹ) hoặc cấp độ 2 (vừa).
Bảng 1.Các tác dụng không mong muốn xảy ra ≥ 1%
bệnh nhân dùng molnupiravir trong
MOVe-OUT*
| Molnupiravir (N = 710) | Placebo (N = 701) |
Tiêu chảy | 2% | 2% |
Buồn nôn | 1% | 1% |
Chóng mặt | 1% | 1% |
* Tần suất của các tác dụng không mong
muốn dựa trên tất cả các biến cố bất lợi được nghiên cứu viên cho là liên
quan đến nghiên cứu. |
Các bất
thường trong xét nghiệm
Các bất thường cấp độ 3 và 4 được lựa chọn
trong xét nghiệm về hóa học (alanin aminotransferase, aspartate
aminotransferase, creatinin và lipase) và huyết học (hemoglobin, tiểu cầu và
bạch cầu) đều xảy ra với tỷ lệ ≤ 2% và tương tự tỷ lệ giữa các nhóm nghiên cứu
trong MOVe-OUT.
11.
QUÁ LIỀU VÀ XỬ TRÍ
Chưa có trường hợp được ghi nhận sử dụng
quá liều molnupiravir trên người. Nếu sử dụng thuốc quá liều cần xử trí bằng
các biện pháp hỗ trợ chung, bao gồm theo dõi tình trạng lâm sàng của bệnh nhân.
Thẩm phân máu không mang lại hiệu quả trong việc đào thải NHC
(N-hydroxycytidin).
12.
ĐẶC TÍNH DƯỢC LỰC HỌC
Nhóm dược
lý:
Thuốc kháng vi rút tác dụng toàn thân, kháng vi rút trực tiếp
Mã ATC: chưa được
phân loại
Cơ chế
hoạt động:
Molnupiravir là tiền thuốc được chuyển hóa
thành chất tương tự ribonucleosid N-hydroxycytidin (NHC). NHC phân bố vào các
mô và được phosphoryl hóa thành dạng ribobonucleosid triphosphat (NHC-TP) có
hoạt tính dược lực. NHC-TP hoạt động theo cơ chế gây lỗi hàng loạt cho vi rút.
NHC-TP gắn vào ARN của vi rút bằng enzym ARN polymerase và gây lỗi trong hệ gen
của vi rút dẫn đến ức chế quá trình sao chép.
Hoạt tính
kháng vi rút
Trong thử nghiệm nuôi cấy tế bào, NHC có
hoạt tính chống lại SARS-CoV-2 với nồng độ hiệu quả 50% (EC50) trong
khoảng 0,67 đến 2,66 μM trên tế bào A-549 và với nồng độ trong khoảng 0,32 đến
2,03 μM trên tế bào Vero E6. NHC có hoạt tính tương tự trên các biến thể
SARS-CoV-2 B.1.1.7 (Alpha), B.1351 (Beta), P.1 (Gamma), và B.1.617.2 (Delta)
với các giá trị EC50 tương ứng lần lượt là 1,59; 1,77; 1,32 và 1.68
μM. Không quan sát thấy ảnh hưởng của NHC trên hoạt tính kháng vi rút in-vitro chống lại SARS-CoV-2 khi thử
nghiệm kết hợp NHC với abacavir, emtricitabin, hydroxycloroquin, lamivudin,
nelfinavir, remdesivir, ribavirin, sofosbuvir, hay tenofovir.
Tác dụng
dược lực học
Mối liên quan giữa NHC và NHC-TP nội bào
với hiệu quả kháng vi rút chưa được đánh giá trên lâm sàng.
Kháng
thuốc
Không có sự thay thế acid amin trong
SARS-CoV-2 liên quan đến kháng NHC được xác định trong các thử nghiệm lâm sàng
giai đoạn 2 đánh giá khả năng điều trị COVID-19 của molnupiravir. Các nghiên
cứu đánh giá tính kháng chọn lọc với NHC của SARS-CoV-2 trong nuôi cấy tế bào
chưa được hoàn thành.
An toàn và
hiệu quả lâm sàng
Dữ liệu lâm sàng này dựa trên dữ liệu từ
1433 bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên trong thử nghiệm MOVe-OUT giai đoạn 3
(NCT04575597). Đây là một nghiên cứu lâm sàng mù đôi, có đối chứng giả dược,
ngẫu nhiên nghiên cứu khả năng điều trị của molnupiravir trên các bệnh nhân
không nhập viện mắc COVID- 19 nhẹ đến trung bình và có nguy cơ tiến triển nặng
hoặc nhập viện.
Tiêu chuẩn lựa chọn đối với các đối tượng
tham gia đủ điều kiện là đủ 18 tuổi trở lên và có một hoặc nhiều hơn các yếu tố
nguy cơ được xác định trước bao gồm: 60 tuổi trở lên, tiểu đường, béo phì
(BMI≥30 kg/m2), bệnh thận mạn tính, bệnh lý tim mạch nghiêm trọng,
bệnh viêm phổi tắc nghẽn mạn tính hoặc ung thư đang tiến triển. Nghiên cứu bao
gồm các bệnh nhân có triệu chứng, chưa được tiêm vắc xin phòng SARS-CoV-2 và
những người đã được xác nhận nhiễm SARS-CoV-2 với các triệu chứng khởi phát
trong vòng 5 ngày. Các bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên 1: 1 để nhận 800 mg
molnupiravir hoặc giả dược, uống hai lần mỗi ngày trong 5 ngày.
Về cơ bản, ở tất cả các bệnh nhân được
ngẫu nhiên hóa, độ tuổi trung bình là 43 tuổi (phạm vi: từ 18 đến 90 tuổi); 17%
bệnh nhân trên 60 tuổi và 3% từ 75 tuổi trở lên; 49% bệnh nhân là nam giới; 57%
là người da trắng, 5% da đen hoặc người Mỹ gốc Phi, 3% châu Á, 50% gốc Tây Ban
Nha hoặc Mỹ La- tinh. Phần lớn các bệnh nhân đăng ký tham gia từ các địa điểm ở
Châu Mỹ La-tinh (46%) và Châu Âu (33%); 12% đăng ký ở Châu Phi, 6% đăng ký ở
Bắc Mỹ và 3% đăng ký ở Châu Á. Bốn mươi tám phần trăm bệnh nhân được dùng
molnupiravir hoặc giả dược trong vòng 3 ngày kể từ khi bắt đầu có triệu chứng
của COVID-19. Các yếu tố nguy cơ phổ biến nhất là béo phì (74%), trên 60 tuổi
(17%) và tiểu đường (16%). Trong số 792 bệnh nhân (55% tổng bệnh nhân nghiên
cứu được chọn ngẫu nhiên) có kết quả xác định chủng/biến thể SARS-CoV-2 ban
đầu, 58% nhiễm Delta (chủng B.1.617.2 và AY), 20% nhiễm Mu (B.1.621), 11% nhiễm
Gamma (P.1), và phần còn lại bị nhiễm các biến thể/chủng khác. Nhìn chung, các
đặc điểm nhân khẩu học và tình trạng bệnh được phân bố cân đối giữa các nhóm điều
trị. Bảng 2 cung cấp kết quả của điểm kết thúc chính (tỷ lệ phần trăm bệnh nhân
nhập viện hoặc tử vong trong vòng 29 ngày do bất kỳ nguyên nhân nào). Kết quả
về hiệu quả dựa trên nhóm người trưởng thành chưa được tiêm vắc xin phòng đủ 18
tuổi trở lên và có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ được xác định trước đối với sự
tiến triển của bệnh: trên 60 tuổi, tiểu đường, béo phì (BMI ≥30
kg/m2), bệnh thận mạn tính, bệnh lý tim mạch nghiêm trọng, bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính hoặc ung thư đang tiến triển. Dữ liệu trên một số phân nhóm
bệnh nhân có nguy cơ cao tiến triển thành tình trạng nhiễm COVID-19 nghiêm
trọng theo định nghĩa của CDC[1] chưa có sẵn.
Bảng 2.Kết quả về hiệu quả ở người lớn nhiễm COVID-19 không nhập viện*
Molnupiravir (N=709) n (% ) | Giả dược (N=699) n (% ) | Chênh lệch nguy cơ % (95% CI) | |
Tất cả các nguyên nhân dẫn đến nhập viện
để điều trị tích cực ≥ 24 giờ hoặc tử vong trong 29 ngày |
48
(6,8%) | 68
(9,7%) | -3,0%
(-5,9%, -0,1%) | |
Tất cả các nguyên nhân dẫn đến tử vong
trong 29 ngày |
1 (0,1%) | 9 (1,3%) | |
* Việc
xác định hiệu quả chính dựa trên phân tích giữa kỳ theo kế hoạch của 762 bệnh
nhân. Tại phân tích giữa kỳ, 7,3% bệnh nhân dùng molnupiravir phải nhập viện
hoặc tử vong trong 29 ngày (28/385), so với 14,1% bệnh nhân được điều trị
bằng giả dược (53/377). Chênh lệch rủi ro điều chỉnh là -6,8% với 95% CI là
(-11,3%, -2,4%) và 2-sided p-value = 0,0024. |
Mức giảm
nguy cơ tương đối điều chỉnh của molnupiravir so với giả dược cho tất cả các
bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên là 30% (CI 95%: 1%, 51%). Các phân
tích được điều chỉnh bởi yếu tố phân tầng theo thời gian khởi phát triệu
chứng COVID-9 (≤ 3 ngày so
với > 3 [4, 5] ngày). |
Hình 1.
Kết quả hiệu quả trên các phân nhóm ở người lớn không nhập viện với COVID-19 -
Tất cả các bệnh nhân đã được phân ngẫu nhiên
Khoảng tin cậy tương ứng dựa trên phương pháp
Miettinen & Nurminen.
Dân số dự định điều trị là dân số phân
tích hiệu quả.
Các mẫu huyết thanh ban đầu được đánh giá
bằng xét nghiệm Roche Elecsys anti-N để kiểm tra sự hiện diện của các kháng thể
(IgM, IgG và IgA) chống lại protein nucleocapsid của SARS-CoV-2. Các phát hiện
trong các phân tích nhóm nhỏ này được xem như thăm dò.
Quần thể
bệnh nhân nhi
Chưa có dữ liệu đầy đủ (Xem mục 4 Phần Liều dùng, cách dùng để có thêm thông
tin về sử dụng ở trẻ em).
13.
ĐẶC TÍNH DƯỢC ĐỘNG HỌC
Molnupiravir là một tiền chất
5’-isobutyrat, được thủy phân thành NHC trước khi hấp thu vào hệ tuần hoàn. Đặc
tính dược động học của NHC trên bệnh nhân khỏe mạnh và bệnh nhân mắc COVID-19
tương tự nhau.
Các thông số dược động học của NHC ở trạng
thái ổn định sau khi uống 800 mg molnupiravir mỗi 12 giờ được thể hiện trong
Bảng 3.
Bảng 3: Dược động học của NHC sau khi uống
800 mg molnupiravir mỗi 12 giờ
Trung
bình NHC (%CV) |
AUC0-12giờ (ng x hr/mL)* | Cmax (ng/mL) | C12giờ (ng/mL)* |
8260 (41,0) | 2970 (16,8) | 31,1 (124) |
%CV: Hệ số biến thiên. * Các giá trị thu được từ phân tích dược
động học trên quần thể Các giá trị thu được từ một nghiên cứu giai
đoạn 1 trên các bệnh nhân khỏe mạnh. |
Hấp thu
Sau khi uống liều 800 mg, 2 lần/ngày, thời
gian trung bình đạt nồng độ đỉnh của NHC (Tmax) là 1,5 giờ.
Phân bố và Chuyển hóa
NHC không liên kết với protein huyết
tương.
Thải trừ
Thời gian bán thải của NHC xấp xỉ 3,3 giờ.
Không quá 3% liều được bài tiết dưới dạng NHC trong nước tiểu ở người khỏe
mạnh.
Nhóm bệnh nhân đặc biệt khác
Giới tính, chủng tộc, tuổi:
Phân tích dược động học ở các nhóm bệnh
nhân cho thấy tuổi, giới tính, chủng tộc không ảnh hưởng có ý nghĩa trên đặc
tính dược động của NHC.
Bệnh nhân nhi
Molnupiravir chưa được nghiên cứu trên
bệnh nhân nhi.
Suy thận
Thải trừ qua thận không phải là con đường
thải trừ chính của NHC. Không cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân suy thận ở tất cả
các mức độ suy thận. Trong một phân tích dược động học, suy thận nhẹ đến trung
bình không ảnh hưởng có ý nghĩa trên đặc tính dược động học của NHC. Đặc tính
dược động học của molnupiravir và NHC không được đánh giá ở bệnh nhân có độ lọc
cầu thận eGFR < 30 mL/phút hoặc bệnh nhân đang được thẩm phân máu (Xem mục 4
phần Liều dùng, cách dùng)
Suy gan
Đặc tính dược động học của molnupiravir và
NHC chưa được đánh giá trên bệnh nhân suy gan. Dữ liệu cận lâm sàng chỉ ra rằng
thải trừ qua gan không phải là con đường thải trừ NHC chính, do đó suy gan hầu
như không ảnh hưởng đến sự phơi nhiễm với NHC. Không cần điều chỉnh liều ở bệnh
nhân suy gan (Xem mục 4 phần Liều dùng, cách
dùng).
14.
DỮ LIỆU TIỀN LÂM SÀNG
Độc tính
chung
Độc tính tủy xương có thể hồi phục, liên
quan đến liều, ảnh hưởng đến tất cả các dòng tế bào tạo máu được quan sát thấy
ở chó với liều ≥ 17 mg/kg/ngày (gấp 0,4 lần mức phơi nhiễm NHC người ở liều
khuyến cáo cho người (RHD)). Giảm nhẹ tế bào máu ngoại vi và tiểu cầu sau 7
ngày điều trị bằng molnupiravir tiến triển thành các thay đổi huyết học nghiêm
trọng hơn sau 14 ngày điều trị. Độc tính tủy xương và độc tính huyết học đều
không được ghi nhận thấy trong một nghiên cứu về độc tính kéo dài 1 tháng ở
chuột lên đến 2000 mg / kg/ ngày (gấp 19 lần mức phơi nhiễm NHC ở liều khuyến
cáo cho người) và nghiên cứu độc tính kéo dài 3 tháng ở chuột với liều lên đến
1000 mg/kg/ngày (9,3 và 15 lần mức phơi nhiễm NHC ở liều khuyến cáo cho người
tương ứng trên nữ và nam).
Độc tính trên xương và sụn, bao gồm sự gia
tăng độ dày của sụn tiếp hợp tăng trưởng và sụn đầu xương cùng với sự giảm của
xương xốp đã được quan sát thấy ở xương đùi và xương chày của chuột đang phát
triển nhanh chóng trong một nghiên cứu độc tính trong 3 tháng ở liều ≥ 500
mg/kg/ngày (5,4 lần mức phơi nhiễm NHC ở liều khuyến cáo cho người). Không có
độc tính đối với xương hoặc sụn trong một nghiên cứu về độc tính kéo dài 1
tháng ở chuột đang phát triển nhanh chóng lên đến 500 mg/kg/ngày (gấp 4,2 và
7,8 lần mức phơi nhiễm NHC ở mức liều khuyến cáo cho người ở nữ và nam), ở chó
với liều trong 14 ngày lên đến 50 mg/ kg /ngày (gấp 1,6 lần mức phơi nhiễm NHC
ở liều khuyến cáo cho người), hoặc trong một nghiên cứu độc tính kéo dài 1
tháng ở chuột với liều lên đến 2000 mg/kg/ngày (gấp 19 lần mức phơi nhiễm NHC ở
liều khuyến cáo cho người). Người trưởng thành không còn sụn tăng trưởng trong
xương, do đó, các phát hiện về xương và sụn không có liên quan với người trưởng
thành. Ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện này đối với bệnh nhi chưa được biết
rõ.
Ung thư
Các nghiên cứu về khả năng gây ung thư của
molnupiravir chưa được thực hiện.
Đột biến
gen
Molnupiravir và NHC dương tính trong xét
nghiệm đột biến ngược của vi khuẩn in vitro (xét nghiệm Ames) có và không có
hoạt hóa chuyển hóa. Trong 2 mô hình gây đột biến gen riêng biệt trên động vật
gặm nhấm (thử nghiệm gây đột biến gen Pig-a và thử nghiệm gây đột biến gen Big
Blue® (cII Locus) Khảo nghiệm động vật gặm nhấm chuyển gen), molnupiravir không
gây ra tỷ lệ đột biến tăng lên so với động vật đối chứng trước đây không được điều
trị, và do đó không gây đột biến in vivo. Molnupiravir âm tính với
cảm ứng tổn thương nhiễm sắc thể trong xét nghiệm vi nhân in vitro (có và không có
hoạt hóa chuyển hóa) và xét nghiệm vi nhân chuột cống in vivo. Dựa trên toàn bộ
dữ liệu về độc tính gen, molnupiravir được dự đoán có nguy cơ gây độc tính gen
hoặc gây đột biến gen thấp khi sử dụng trên lâm sàng.
Tổn thương
khả năng sinh sản
Không có ảnh hưởng trên khả năng sinh sản,
khả năng giao phối hoặc phát triển sớm của phôi khi sử dụng molnupiravir ở
chuột cống cái hay chuột cống đực lần lượt ở mức độ phơi nhiễm NHC xấp xỉ gấp 2
đến 6 lần mức độ phơi nhiễm NHC ở người khi dùng liều khuyến cáo cho người
(RHD).
Sự phát
triển
Trong một nghiên cứu về sự phát triển phôi
thai (EFD: embryofoetal development) ở chuột, molnupiravir được dùng đường uống
cho chuột mang thai ở liều 0, 100, 250, hoặc 500 mg/kg/ngày kể từ ngày mang
thai (GDs) thứ 6 đến 17. Molnupiravir cũng được dùng đường uống cho chuột mang
thai với liều lượng lên đến 1000 mg/kg/ngày từ ngày mang thai thứ 6 đến 17
trong một nghiên cứu EFD sơ bộ. Độc tính phát triển bao gồm mất phôi sau khi
làm tổ, dị tật mắt, thận và xương trục, và các biến thể xương sườn ở mức 1000
mg/kg/ngày (gấp 8 lần mức phơi nhiễm NHC ở người ở RHD) và giảm trọng lượng cơ
thể thai nhi và chậm quá trình hóa xương ở liều ≥ 500 mg /kg/ ngày (gấp 2,9 lần
mức phơi nhiễm NHC của người ở RHD). Không có độc tính phát triển ở mức liều ≤
250 mg/kg/ngày (gấp 0,8 lần mức người phơi nhiễm NHC ở liều khuyến cáo cho
người). Độc tính đối với động vật mẹ bao gồm giảm tiêu thụ thức ăn và giảm
trọng lượng cơ thể, dẫn đến việc cá thể động vật tử vong sớm ở liều 1000
mg/kg/ngày và giảm sự tăng trọng lượng cơ thể ở liều 500 mg/kg/ngày.
Trong một nghiên cứu sự phát triển phôi
thai (EFD) ở thỏ, thỏ mẹ được cho uống molnupivir liều 0, 125, 400 và 750
mg/kg/ngày từ ngày thai thứ 7 đến 19. Độc tính trên sự phát triển chỉ là giảm
trọng lượng thai nhi ở liều 750 mg/kg/ngày (gấp 18 lần nồng độ phơi nhiễm NHC ở
người khi dùng liều khuyến cáo cho người). Không có độc tính trên sự phát triển
xuất hiện ở liều 400 mg/kg/ngày (gấp 7 lần nồng độ phơi nhiễm NHC ở người khi
dùng liều khuyến cáo cho người). Độc tính trên thỏ mẹ bao gồm giảm tiêu thụ
thức ăn, giảm sự tăng cân và ra phân bất thường ở liều 750 mg/kg/ngày.
15.
QUY CÁCH ĐÓNG GÓI
<>
16.
ĐIỀU KIỆN BẢO QUẢN
Nơi khô, dưới 30°C, tránh ánh sáng.
17.
HẠN DÙNG
<>
18.
TIÊU CHUẨN CHẤT LƯỢNG
<>
19.
TÊN, ĐỊA CHỈ CỦA CƠ SỞ SẢN XUẤT THUỐC
Cơ sở sản xuất thuốc: <>
Địa chỉ: <>
Điện thoại: Fax:
Email:
NGÀY XEM
XÉT SỬA ĐỔI, CẬP NHẬT NỘI DUNG HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG THUỐC
https://www.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/need-extra-precautions/people-with-medical-conditions.html