Quyết định 276/QĐ-CA Công bố án lệ
02-10-2020
02-10-2020
- Trang chủ
- Văn bản
- 276/QĐ-CA
- TẢI VỀ
- THUỘC TÍNH
Tòa án nhân dân tối cao Số: 276/QĐ-CA |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày 02 tháng 10 năm 2020 |
Quyết định
VỀ VIỆC CÔNG BỐ ÁN LỆ
CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
- Căn cứ
Điều 27 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;
- Căn cứ
Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ;
- Căn cứ kết quả lựa chọn,
biểu quyết thông qua án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày
13 tháng 8 năm 2020,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Công bố 02 (hai) án lệ đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua (có án lệ kèm theo).
Việc áp dụng án lệ được thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 8 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18 tháng 6 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ (02 bản, để đăng Công báo);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Bộ Công an;
- Liên đoàn Luật sư Việt Nam;
- Trung ương Hội luật gia Việt Nam;
- Các TAND và TAQS;
- Các Thẩm phán TANDTC;
- Các đơn vị thuộc TANDTC;
- Cổng thông tin điện tử TANDTC;
- Lưu: VT, Vụ PC&QLKH (TANDTC).
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình
Nguyễn Hòa Bình
ÁN LỆ SỐ 38/2020/AL1
Về việc không thụ lý yêu cầu đòi tài sản đã được phân
chia bằng bản án có hiệu lực pháp luật
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thông qua ngày 13 tháng 8 năm 2020 và được công bố theo Quyết định số
276/QĐ-CA ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 28/2019/DS-GĐT
ngày 12-11-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự
“Kiện đòi tài sản” tại tỉnh Lâm Đồng giữa nguyên đơn là bà Tô Thị M và bị đơn
là cụ Nguyễn Thị Đ, bà Phạm Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm
09 người.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 2 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung án lệ:
- Tình huống án lệ:
Sau khi tài sản là quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất đã được phân chia bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án thì có người khác (không phải là đương sự trong vụ án đó) khởi
kiện đòi quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất đó.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Tòa án không thụ lý vụ án
mới. Người có yêu cầu đòi quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất thông báo bằng
văn bản cho người có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của
pháp luật.
Quy định của pháp luật liên quan đến án
lệ:
Điểm c khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1
Điều 217, khoản 2 Điều 327, khoản 1 Điều 353 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Từ khóa của án lệ:
“Tài sản được phân chia bằng bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật”; “Kiện đòi tài sản”; “Không thụ lý vụ án mới”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Tại Đơn khởi kiện đề ngày 18-7-2011,
Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 16-6-2015 và các lời khai trong quá trình tố
tụng, nguyên đơn là bà Tô Thị M (do ông Nguyễn Anh D là người đại diện hợp
pháp) trình bày:
Nguồn gốc đất tại số 12 đường G, phường 5,
thành phố T (trong đó có 01 phần nhà, đất tranh chấp hiện nay là số 12A
đường G) là tài sản của cha mẹ bà M là cụ Tô Duy H1 và cụ Trần Thị Đ1, được Sở
Xây dựng tỉnh Lâm Đồng cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất số 6015/NĐ-XD
Q3,4 ngày 18-12-1989. Nhà có cấu trúc cấp 2, hạng 3, còn 80%, nền gạch hoa,
vách xây, tường đúc, mái bằng, tổng diện tích là 437,9m2, diện tích
sử dụng chính là 315,17m2. Năm 1973, cụ H1 cho bà Hoàng Thị N thuê
một phần nhà sau để ở (số 12A đường G). Năm 1975, gia đình cụ H1 đòi
nhà thì bà N xin ở thêm một thời gian cho đến khi tìm được nơi ở mới sẽ trả
nhà. Từ sau năm 1975, gia đình cụ H1 không thu tiền thuê nhà của bà N. Năm
1980, bà N lén lút cho bà Phạm Thị H vào ở nhà đang thuê của cụ H1. Gia đình bà
M đã khiếu nại việc này đến Ủy ban nhân dân phường 5, thành phố T, nhưng qua
hòa giải, gia đình bà M đồng ý cho bà H ở cho đến khi tìm được nhà.
Năm 2003, bà H kê khai và xin cấp Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại số 12A đường G,
phường 5, thành phố T, gia đình bà M tiếp tục yêu cầu bà H trả nhà. Năm 2011,
bà H xin được giấy phép xây dựng nhà, nhưng gia đình bà M không biết. Hiện nay,
nhà đất tại 12A đường G, phường 5, thành phố T do bà H và cụ Nguyễn
Thị Đ đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.
Vì vậy, bà M khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà H và cụ Đ phải hoàn trả gia đình
bà M nhà đất đã chiếm dụng tại 12A đường G, phường 5, thành phố T.
2. Bị đơn là cụ Nguyễn Thị Đ và bà Phạm
Thị H trình bày:
Năm 1994, bà H và ông Nguyễn Ngọc C (chồng
của bà H) nhận chuyển nhượng của bà Hoàng Thị N căn nhà tại số 12A
đường G, phường 5, thành phố T và sử dụng ổn định, không có tranh chấp. Năm
2002, bà H và ông C ly hôn. Tại Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số
17/HNGĐ-PT ngày 24-9-2002, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên cụ Đ được sở
hữu ½ căn nhà, bà H được sở hữu ½ căn nhà nêu trên do vợ chồng bà H mua chung
căn nhà cùng cụ Đ (mẹ của bà H). Ngày 12-01-2004, bà H và cụ Đ được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà số 12A
đường G, phường 5, thành phố T. Tháng 3 năm 2011, bà H xin phép cơ quan có thẩm
quyền cho xây dựng lại nhà, vì căn nhà xuống cấp nghiêm trọng. Khi bắt đầu xây
lại nhà, bà H đã trao đổi với bà M về việc đập bức tường mà gia đình bà M tự
động xây lấn sang đất của bà H, nhưng bà M không cho đập và yêu cầu bà H phải
trả nhà. Bà H và cụ Đ xác định: Căn nhà số 12A đường G, phường 5,
thành phố T do bà H và cụ Đ mua hợp pháp của bà N, đồng thời đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất nên không đồng ý với yêu cầu
khởi kiện của bà M.
Tại Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự sơ thẩm và trả lại đơn khởi kiện số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016, Tòa
án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:
Đình chỉ giải quyết và trả lại đơn khởi
kiện về vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 03/2012/TLDS-ST ngày 17-4-2012 về vụ án
“Kiện đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Tô Thị M với bị đơn là cụ Nguyễn Thị Đ
và bà Phạm Thị H.
Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18-8-2016,
ông Nguyễn Anh D là đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn kháng cáo không đồng
ý với quyết định sơ thẩm nêu trên.
Tại Quyết định giải quyết việc kháng cáo
đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 91/2017/QĐDS-PT ngày 30-5-2017,
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông, bà: Tô Thị S1, Tô Duy
T, Tô Duy S, Tô Thị Kim N1, Tô Thị T1, Tô Thị S2, Tô Duy E, Tô Duy P1, Tô Thị
H2, Tô Thị H3, Tô Thị Ngọc L, Tô Duy P2, Tô Duy Lâm S3, Tô Thị Ngọc H4, Tô Duy
H5, Tô Thị Ngọc V, Tô Duy H6 (do ông Nguyễn Anh D làm đại diện).
Hủy Quyết định đình chỉ việc giải quyết
vụ án dân sự số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Lầm
Đồng; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng tiếp tục giải quyết vụ
án.
Tòa án cấp phúc thẩm còn tuyên về án phí.
Ngày 01-9-2017, Thẩm phán Bùi Hữu Nhân -
Chủ tọa phiên tòa sơ thẩm có đơn đề nghị Tòa án nhân dân tối cao xem xét quyết
định phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định số 49/2019/KN-DS ngày
31-7-2019, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định giải quyết
việc kháng cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 91/2017/QĐDS-PT
ngày 30-5-2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định
phúc thẩm nêu trên và giữ nguyên Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ
thẩm số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng và trả
lại đơn khởi kiện.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Hồ sơ vụ án thể hiện, bà Tô Thị M khởi
kiện cho rằng căn nhà số 12A đường G, phường 5, thành phố T thuộc
quyền sở hữu của cụ Tô Duy H1 và cụ Trần Thị Đ1, yêu cầu Tòa án xử buộc bà Phạm
Thị H và cụ Nguyễn Thị Đ trả lại cho bà.
[2] Tại điểm c khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 quy định một trong những trường hợp Tòa án trả lại đơn
khởi kiện là: “Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay
đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay
đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám
hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền
sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và
theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;”. Các tài liệu trong
hồ sơ vụ án thể hiện: Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT ngày
24-9-2002, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên bà Phạm Thị H được quyền sở
hữu ½ căn nhà diện tích 40,73m2, cụ Nguyễn Thị Đ được quyền sở hữu ½
căn nhà diện tích 40,73m2 tại số 12A đường G, phường 5,
thành phố T. Như vậy, nội dung khởi kiện của bà M cho rằng căn nhà số 12A
đường G, phường 5, thành phố T là của cụ H1 và cụ Đ1 đã có bản án đang có hiệu
lực xác định quyền sở hữu căn nhà đó là của cụ Đ với bà H. Điều 256 Bộ luật Dân
sự năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu
người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn
cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp
của mình phải trả lại tài sản đó,... ”. Như vậy, với nội dung quyết định
của Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT nêu trên thì bà M không
có quyền đòi cụ Đ và bà H trả lại căn nhà số 12A đường G, phường 5,
thành phố T. Cho nên phải xem nội dung yêu cầu khởi kiện của bà M thuộc trường
hợp “Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án”; nếu bà M không đồng tình với Bản án hôn nhân và gia đình
phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT thì đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền xem xét lại
bản án đó theo thủ tục giám đốc thẩm (khi thời hiệu còn) hoặc tái thẩm (khi có
căn cứ). Do đó, ngày 01-8-2016, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành Quyết
định số 03/2016/QĐST-DS đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện của
bà M là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm g khoản 1 Điều
217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quyết định số 91/2017/QĐDS-PT ngày
30-5-2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy toàn bộ
Quyết định số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 nêu trên vì cho rằng quan hệ tranh
chấp trong vụ án này là “Đòi tài sản”, có nguyên đơn, bị đơn khác với nguyên
đơn, bị đơn trong vụ án hôn nhân và gia đình đã được Tòa án nhân dân tỉnh Lâm
Đồng xét xử phúc thẩm tại Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT
ngày 24-9-2002 là không đúng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 2 Điều
343, Điều 344 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám
đốc thẩm số 49/2019/KN-DS ngày 31-7-2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2. Hủy Quyết định giải quyết việc kháng
cáo đối với Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 91/2017/QĐDS-PT ngày
30-5-2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Kiện
đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Tô Thị M với bị đơn là cụ Nguyễn Thị Đ,
bà Phạm Thị H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.
3. Giữ nguyên Quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự sơ thẩm và trả lại đơn khởi kiện số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016
của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[2]... Bản án hôn nhân và gia đình
phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT ngày 24-9-2002, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên
bà Phạm Thị H được quyền sở hữu ½ căn nhà diện tích 40,73m2, cụ
Nguyễn Thị Đ được quyền sở hữu ½ căn nhà diện tích 40,73m2 tại số 12A
đường G, phường 5, thành phố T. Như vậy, nội dung khởi kiện của bà M cho rằng
căn nhà số 12A đường G, phường 5, thành phố T là của cụ H1 và cụ Đ1
đã có bản án đang có hiệu lực xác định quyền sở hữu căn nhà đó là của cụ Đ với
bà H. Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu
hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó,…”. Như vậy, với
nội dung quyết định của Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT nêu
trên thì bà M không có quyền đòi cụ Đ và bà H trả lại căn nhà số 12A
đường G, phường 5, thành phố T. Cho nên phải xem nội dung yêu cầu khởi kiện của
bà M thuộc trường hợp “Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án”; nếu bà M không đồng tình với Bản án hôn nhân và
gia đình phúc thẩm số 17/HNGĐ-PT thì đề nghị Tòa án nhân dân có thẩm quyền xem
xét lại bản án đó theo thủ tục giám đốc thẩm (khi thời hiệu còn) hoặc tái thẩm
(khi có căn cứ). Do đó, ngày 01-8-2016, Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành
Quyết đinh số 03/2016/QĐST-DS đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi
kiện của bà M là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 và điểm g
khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Quyết định số 91/2017/QĐDS-PT
ngày 30-5-2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy toàn
bộ Quyết định số 03/2016/QĐST-DS ngày 01-8-2016 nêu trên vì cho rằng quan hệ
tranh chấp trong vụ án này là “Đòi tài sản”, có nguyên đơn, bị đơn khác với
nguyên đơn, bị đơn trong vụ án hôn nhân và gia đình đã được Tòa án nhân dân
tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm tại Bản án hôn nhân và gia đình phúc thẩm số
17/HNGĐ-PT ngày 24-9-2002 là không đúng”.
______________________
1 Án lệ này do Hội
đồng xét xử giám đốc thẩm gồm 05 Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.
ÁN LỆ SỐ
39/2020/AL1
Về xác định giao dịch dân sự có điều kiện vô hiệu do
điều kiện không thể xảy ra
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thông qua ngày 13 tháng 8 năm 2020 và được công bố theo Quyết định số
276/QĐ-CA ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 29/2019/DS-GĐT
ngày 12-11-2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án “Tranh
chấp hợp đồng ở nhờ nhà ở” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn là cụ Trần
Vân C với bị đơn là ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 và Công ty TNHH một thành
viên Du lịch T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 03 người.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 1 phần “Nhận định của Tòa án”.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Người thuê nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
(bên bán) cam kết sau khi mua hóa giá nhà của nhà nước sẽ chuyển nhượng quyền
sở hữu nhà cho bên mua. Bên bán đã nhận tiền và giao nhà cho bên mua nhưng sau
đó Nhà nước không hóa giá và không công nhận quyền sở hữu nhà.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác định hợp đồng
chuyển nhượng quyền sở hữu nhà là giao dịch dân sự có điều kiện nhưng vô hiệu
do điều kiện của hợp đồng không thể xảy ra.
Quy định của pháp luật liên quan đến án
lệ:
- Điều 23 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm
1991 (tương ứng với khoản 6 Điều 406 Bộ luật Dân sự năm 2005, khoản 6 Điều 402
Bộ luật Dân sự năm 2015);
- Điều 21 Luật Nhà ở năm 2005 (tương ứng
với Điều 10 Luật Nhà ở năm 2014);
- Điều 256 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương
ứng với Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Từ khóa của án lệ:
“Giao dịch dân sự có điều kiện”; “Điều
kiện không xảy ra”; “Giao dịch vô hiệu”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại Đơn khởi kiện ngày 27-6-2003 của cụ
Trần Vân C và Đơn yêu cầu kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng ngày 26-4-2011 của
bà Lê Thị Minh C2, ông Lê Minh S, ông Lê Minh Đ, ông Lê Minh T2 và trong quá
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn do bà Lê Thị Minh C2 đại diện trình bày:
Năm 1982, gia đình cụ Nguyễn Viết L (chết
năm 1985) và cụ Trần Vân C (chết năm 2011) cùng 03 người con là ông Lê Minh S,
ông Lê Minh Đ, ông Lê Minh T2 được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp cho sử dụng
tầng trệt phía trước căn nhà số 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí
Minh. Tháng 5-1989, cụ C cho Chi nhánh Công ty Du lịch T thuê một phần nhà có
diện tích 50,85m2, vị trí góc 2 mặt tiền đường A - Đ để mở cửa hàng
dịch vụ tổng hợp. Bà C1 khi đó lấy tư cách là cửa hàng trưởng, cùng chồng là
ông Nguyễn Công H trực tiếp kinh doanh và đại diện cho Chi nhánh Công ty Du
lịch T trả tiền thuê nhà tháng 6-1989 là 2,3 chỉ vàng 24K và trả tiếp tiền thuê
từ tháng 7-1989 đến tháng 12-1992 là 75 chỉ vàng 24K, đợt một trả vào ngày
10-7-1989 là 35 chỉ vàng 24K, đợt hai trả 40 chỉ vàng vào ngày 01-9-1989. Tổng
cộng cụ C nhận 7,5 lượng vàng 24K.
Tháng 12-1989, Chi nhánh Công ty Du lịch T
kinh doanh không hiệu quả nên giao cho bà C1 tiếp tục kinh doanh và thực hiện
việc trả tiền thuê cho đến hết tháng 02-2002. Kể từ tháng 3-2002 đến nay bà C1
và ông H vẫn ở tại phần diện tích này và không trả tiền thuê nhà, một phần nhà
hiện do bà T1 sử dụng, một phần do bà K sử dụng.
Quá trình bà C1, ông H sử dụng nhà có xây
dựng, sửa chữa nên phần diện tích đang tranh chấp có giá trị tính theo biên bản
định giá ngày 22-01-2014 là 1.427.421.900 đồng, nay đề nghị Tòa án xét xử theo
quy định của pháp luật. Đối với Hợp đồng liên kết số 05 ký ngày 20-5-1989 ký
với Chi nhánh Công ty Du lịch T, nguyên đơn không yêu cầu giải quyết và rút yêu
cầu buộc Công ty TNHH một thành viên Du lịch T trả 1,48 lượng vàng 24K tiền
thuê nhà.
Do hai bên không có việc mua bán nhà và
không còn quan hệ thuê nhà nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên hủy bỏ bản cam
kết do cụ Trần Vân C và bà Trần Thị C1 lập và ký ngày 10-7-1989; buộc bà C1,
ông H trả ngay phần nhà đang ở nhờ. Đồng ý trả cho bà C1, ông H chi phí sửa
chữa lại nhà là 64.105.000 đồng.
Bị đơn là ông Nguyễn Công H, bà Trần
Thị C1 trình bày:
Năm 1989, ông H, bà C1 có sang nhượng một
phần diện tích khoảng hơn 40m2 nằm trong nhà 182 đường A, quận D của
cụ Trần Vân C với giá 7,5 lượng vàng 24K, hai bên có viết giấy tay bán nhà vào
ngày 10-7-1989, ông H, bà C1 đã giao đủ số vàng này cho cụ C, sau đó đưa thêm
05 chỉ, tổng cộng giá bán là 08 lượng vàng 24K. Phần diện tích sang nhượng có
vị trí tại góc 2 mặt tiền đường A - Đ. Vào thời điểm đó, cụ C đang thuê căn nhà
trên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nên chưa được cấp chủ quyền nhà, do đó
hai bên chỉ viết giấy tay, không ký được hợp đồng mua bán. Sau đó, ông H, bà C1
đã sang nhượng lại cho bà Trần Thị Kim T1 một phần nhà có diện tích khoảng 16m2,
việc sang nhượng với bà T1 chỉ thỏa thuận bằng miệng. Khoảng năm 2005, ông H,
bà C1 có hợp tác kinh doanh với bà Lương Thị K tại phần diện tích trên.
Theo bản cam kết giữa hai bên tại giấy
viết tay ngày 10-7-1989 thì khi nào Nhà nước cho cụ C mua hóa giá nhà thì ông
H, bà C1 phải trả tiền hóa giá phần diện tích đã sang nhượng và cụ C có trách
nhiệm làm thủ tục chuyển quyền sở hữu phần diện tích đã sang nhượng cho ông H,
bà C1. Đồng thời, căn cứ Luật Đất đai năm 2003 thì ông H, bà C1 đã sử dụng nhà
và đất trên 25 năm nên phải được công nhận quyền sử dụng đất và nhà, nên yêu
cầu công nhận việc chuyển nhượng nhà theo Bản cam kết ngày 10-7-1989 vì đây là
giao dịch dân sự có điều kiện.
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của
cụ C yêu cầu đòi nhà cho ở nhờ là không có cơ sở vì theo Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà thì cụ C chỉ có quyền sở hữu 167m2 còn phần diện tích
trên cụ C không có quyền sở hữu, nên không có quyền khởi kiện, ông H, bà C1
không chấp nhận. Do tranh chấp phát sinh năm 1989 đã hết thời hiệu, nên yêu cầu
đình chỉ vụ án.
Việc sang nhượng một phần diện tích cho bà
T1 và việc hợp tác kinh doanh với bà K không yêu cầu giải quyết. Quá trình sử
dụng ông H, bà C1 có sửa chữa lại nhà với chi phí sửa chữa tính theo bản chiết
tính là 64.105.000 đồng, trường hợp Tòa án không công nhận việc chuyển nhượng
nhà thì yêu cầu phải trả lại số tiền đã sửa chữa này.
Bị đơn là Công ty TNHH một thành viên
Du lịch T do ông Nguyễn Văn T3 đại diện trình bày:
Công ty TNHH một thành viên Du lịch T là
đơn vị chủ quản của Chi nhánh Công ty Du lịch T. Thời điểm năm 1989, Chi nhánh
do ông Nguyễn S1 làm giám đốc, Chi nhánh đã giải thể từ năm 1990. Việc Chi
nhánh ký kết hợp đồng liên kết với cụ Trần Vân C, trước đây ông S1 không có báo
cáo với Công ty và khi giải thể cũng không có bàn giao công nợ nên Công ty
không có căn cứ để giải quyết đối với yêu cầu đòi tiền thuê nhà của cụ C. Những
người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ C không có yêu cầu giải quyết đối với
Hợp đồng liên kết số 05 ngày 20-5-1989 ký với Chi nhánh Công ty Du lịch T và đã
rút yêu cầu đòi 1,48 lượng vàng 24K tiền thuê nhà nên Công ty TNHH một thành
viên Du lịch T không có ý kiến nào khác. Yêu cầu xét xử theo quy định của pháp
luật, ông T3 xin được vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là bà Trần Thị Kim T1 trình bày:
Bà T1 có sang nhượng lại của bà C1 một
phần nhà số 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích
khoảng 16m2 vào năm 1989, với giá 04 lượng vàng, việc sang nhượng
không làm giấy tờ. Nay bà T1 yêu cầu phía cụ C phải có trách nhiệm làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu cho ông H, bà C1. Việc sang nhượng giữa bà T1 với ông H, bà
C1 không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời, theo bà T1 thì phần diện tích
các bên đang tranh chấp là phần sử dụng chung của các hộ trong nhà 182 đường A,
phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh, cụ C không có quyền sở hữu nên không
có quyền khởi kiện.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là bà Lương Thị K trình bày:
Ngày 01-4-2005, bà K có hợp tác kinh doanh
với bà C1. Giấy phép kinh doanh do bà K đứng tên tại địa chỉ số 182 đường A,
phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh, khi hợp tác bà K không biết rõ về tình
trạng pháp lý căn nhà. Nay cụ C và bà C1 có tranh chấp bà không có ý kiến và
không có yêu cầu nào. Về việc hợp tác với bà C1 hai bên tự giải quyết.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là Công ty Quản lý kinh doanh nhà N do bà Phạm Thúy H1 đại diện trình bày:
Công ty Quản lý kinh doanh nhà N tiến hành
bán nhà số 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2001,
trước khi bán có lập biên bản kiểm tra phần diện tích do từng hộ sử dụng. Theo
nội dung biên bản thì phần diện tích nhà ở và đất ở các đương sự đang tranh
chấp nằm trong lộ giới thuộc quyền sử dụng của chủ sở hữu (cụ C - đã chết) cho
đến khi Nhà nước thu hồi để thực hiện dự án mở rộng lộ giới. Việc cụ C cho ở
nhờ, cho thuê, chuyển nhượng là trái với quy định nên Công ty Quản lý nhà N
không đồng ý. Yêu cầu xét xử theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 28/DS-ST ngày
27-7-2006, Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
- Hủy cam kết ngày 10-7-1989 giữa cụ C
với ông H, bà C1.
- Ông H, bà C1, bà T1, bà K có trách
nhiệm giao lại cho cụ C một phần tầng trệt nhà 182 đường A, phường B, quận D,
Thành phố Hồ Chí Minh với diện tích 50,85m2.
- Cụ C trả ông H, bà C1: 08 lượng vàng
đã nhận + 27,49 lượng vàng thiệt hại + 64.105.000 đồng tiền sửa chữa. Tổng cộng
35,49 lượng vàng và 64.105.000 đồng.
Nguyên đơn và bị đơn đều có đơn kháng cáo.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số
188/2007/DS-PT ngày 07-02-2007, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết
định:
Sửa một phần Bản án sơ thẩm:
Công nhận Hợp đồng mua bán nhà giữa cụ
Trần Vân C với ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 theo giấy cam kết ngày
10-7-1989.
Cụ C có trách nhiệm chuyển quyền sở hữu
nhà cho ông H, bà C1.
Ông H, bà C1 trả cụ C tiền hóa giá nhà
169.432.000 đồng.
Tại Quyết định số 138/QĐ-KNGĐT-V5 ngày
13-11-2007, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự
phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số
01/2008/DS-GĐT ngày 25-01-2008, Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy
Bản án dân sự sơ thẩm số 28/DS-ST ngày 27-7-2006 của Tòa án nhân dân Quận 3 và
hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 188/2007/DS-PT ngày 07-02-2007 của Tòa án nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận 3 xét xử
theo thủ tục sơ thẩm.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2014/pS-ST
ngày 16-4-2014, Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định: Chấp
nhận một phần yêu cầu của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Trần Vân
C.
- Tuyên bố bản cam kết về việc chuyển
nhượng quyền sử dụng một phần căn nhà số 182 đường A, phường B, quận D, Thành
phố Hồ Chí Minh ký ngày 10-7-1989 giữa cụ Trần Vân C và bà Trần Thị C1 là vô
hiệu.
- Buộc những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ của cụ Trần Vân C là bà Lê Thị Minh C2, ông Lê Minh S, ông Lê Minh Đ,
ông Lê Minh T2 có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 số
vàng đã nhận là 08 lượng vàng 24k = 276.320.000 đồng.
- Buộc những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ của cụ Trần Vân C là bà Lê Thị Minh C2, ông Lê Minh S, ông Lê Minh Đ,
ông Lê Minh T2 có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1
chi phí xây dựng, sửa chữa nhà là 64.105.000 đồng.
- Buộc những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ của cụ Trần Vân C là bà Lê Thị Minh C2, ông Lê Minh S, ông Lê Minh Đ,
ông Lê Minh T2 có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Công H, bà
Trần Thị C1 số tiền là 575.550.950 đồng.
- Buộc ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị
C1, bà Trần Thị Kim T1, bà Lương Thị K phải có trách nhiệm giao trả cho những
người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Trần Vân C là bà Lê Thị Minh C2, ông Lê
Minh S, ông Lê Minh Đ, ông Lê Minh T2 phần diện tích nhà và đất trong căn nhà
số 182 đường A, phường B, quận D, Thành phố Hồ Chí Minh gồm: Diện tích nhà và
đất trong nhà chính có lầu, phù hợp quy hoạch là 8,11m2 + diện tích
nhà và đất trong lộ giới là 42,74m2.
Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án
phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 24-4-2014, ông Nguyễn Công H, bà Trần
Thị C1, bà Trần Thị Kim T1 có đơn kháng cáo.
Ngày 28-4-2014, bà Lê Thị Minh C2 có đơn
kháng cáo.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số
1515/2014/DS-PT ngày 01-12-2014, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết
định:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
bà Lê Thị Minh C2, bà Trần Thị C1, ông Nguyễn Công H và bà Trần Thị Kim T1, giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án
phí.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bị đơn là ông
Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm
đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 1515/2014/DS-PT ngày 01-12-2014 nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị số
38/KNGĐT-VC3-V2 ngày 21-3-2016, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 1515/2014/DS-PT
ngày 01-12-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Ủy ban Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy
Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2014/DS-ST ngày
16-4-2014 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án
cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số
234/2016/DS-GĐT ngày 09-9-2016, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Không chấp nhận Kháng nghị số
38/KNGĐT-VC3-V2 ngày 21-3-2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh; giữ nguyên Bản án dân sự phúc thẩm số
1515/2014/DS-PT ngày 01-12-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 21-01-2017, ông Nguyễn Công H, bà
Trần Thị C1, bà Trần Thị Kim T1 có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc
thẩm đối với Quyết định giám đốc thẩm số 234/2016/DS-GĐT ngày 09-9-2016 nêu
trên.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số
56/2019/KN-DS ngày 05-8-2019, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị
Quyết định giám đốc thẩm số 234/2016/DS-GĐT ngày 09-9-2016 của Ủy ban Thẩm phán
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định giám đốc thẩm số
234/2016/DS-GĐT ngày 09-9-2016 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh, hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 1515/2014/DS-PT ngày
01-12-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm
số 12/2014/DS-ST ngày 16-4-2014 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử
sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với quyết định kháng nghị của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Hồ sơ, chứng cứ vụ án thể hiện, ngày
10-7-1989, cụ Trần Vân C và bà Trần Thị C1 ký Bản cam kết và Giấy biên nhận với
nội dung: Cụ C có nhận của bà C1 75 chỉ vàng, cho vợ chồng bà C1 toàn quyền sử
dụng phần diện tích 45m2 tại căn nhà số 182 đường A, phường B, quận
D, Thành phố Hồ Chí Minh; cụ C không bao giờ đòi lại nhà, cũng như vợ chồng bà
C1 không đòi lại vàng; khi nào Nhà nước cho cụ C mua hóa giá nhà thì ông H, bà
C1 phải trả tiền hóa giá phần diện tích đang sử dụng và cụ C có trách nhiệm làm
thủ tục chuyển quyền sở hữu phần diện tích đã sang nhượng cho ông H, bà C1. Như
vậy, có cơ sở xác định cụ C đã thỏa thuận bán một phần căn nhà số 182 đường A đang
thuê của Nhà nước cho bà C1 với điều kiện khi cụ C được Nhà nước hóa giá, hay
nói cách khác, giao dịch giữa cụ C và bà C1 là giao dịch dân sự có điều kiện,
khi nào cụ C được Nhà nước bán hóa giá nhà thì giao dịch phát sinh hiệu lực.
Điều 23 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 quy định: “Trong trường hợp các
bên thỏa thuận về một sự kiện là điều kiện thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng,
thì khi sự kiện đó xảy ra, hợp đồng phải được thực hiện hoặc chấm dứt”.
Điều kiện thỏa thuận trong hợp đồng tuy không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội, nhưng trong phần nhà đất cụ C thỏa thuận chuyển
nhượng cho bà C1 có diện tích 42,74m2 nằm trong lộ giới, Nhà nước
không hóa giá và không công nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất của cụ C
cho nên phần lớn điều kiện đó không xảy ra. Vì vậy, sự thỏa thuận giữa cụ C với
bà C1 không phát sinh hiệu lực, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên vô hiệu
là có căn cứ.
[2] Theo quy định tại Điều 21 Luật Nhà ở
năm 2005, điểm h khoản 1 Điều 10 Luật Nhà ở năm 2014 và Điều 256 Bộ luật Dân sự
năm 2005 thì chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại
tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật. Vì phần nhà đất có diện tích 42,74m2 đang
tranh chấp nằm trong lộ giới, Nhà nước không hóa giá, không công nhận quyền sở
hữu nhà, quyền sử dụng đất cho cụ C thì cụ C và những người thừa kế của cụ C
không có quyền kiện đòi phần diện tích nhà đất đó. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp
phúc thẩm buộc ông H, bà C1, bà T1, bà K phải có trách nhiệm giao trả cho những
người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của cụ C phần diện tích nhà và đất thuộc
lộ giới, Nhà nước không công nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất là không
có căn cứ. Quyết định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh không nhận thấy sai sót của Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm, từ đó tuyên không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án
phúc thẩm là không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 337, khoản 3 Điều
343, khoản 2 Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám
đốc thẩm số 56/2019/KN-DS ngày 05-8-2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2. Hủy Quyết định giám đốc thẩm số
234/2016/DS-GĐT ngày 09-9-2016 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh, hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 1515/2014/DS-PT ngày
01-12-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án dân sự sơ
thẩm số 12/2014/DS-ST ngày 16-4-2014 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ
Chí Minh về vụ án “Tranh chấp hợp đồng ở nhờ nhà ở” giữa nguyên đơn là cụ Trần
Vân C (chết ngày 02-4-2011); người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Trần Vân C
là bà Lê Thị Minh C2, ông Lê Minh S, ông Lê Minh Đ, ông Lê Minh T2 với bị đơn
là ông Nguyễn Công H, bà Trần Thị C1 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan khác.
3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của
pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ:
“[1]...Như vậy, có cơ sở xác định cụ C
đã thỏa thuận bán một phần căn nhà số 182 đường A đang thuê của Nhà nước cho bà
C1 với điều kiện khi cụ C được Nhà nước hóa giá, hay nói cách khác, giao dịch
giữa cụ C và bà C1 là giao dịch dân sự có điều kiện, khi nào cụ C được Nhà nước
bán hóa giá nhà thì giao dịch phát sinh hiệu lực. Điều 23 Pháp lệnh Hợp đồng
dân sự năm 1991 quy định: "Trong trường hợp các bên thỏa thuận về một sự
kiện là điều kiện thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng, thì khi sự kiện đó xảy ra,
hợp đồng phải được thực hiện hoặc chấm dứt". Điều kiện thỏa thuận trong
hợp đồng tuy không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội,
nhưng trong phần nhà đất cụ C thỏa thuận chuyển nhượng cho bà C1 có diện tích
42,74m2 nằm trong lộ giới, Nhà nước không hóa giá và không công nhận
quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất của cụ C cho nên phần lớn điều kiện đó
không xảy ra. Vì vậy, sự thỏa thuận giữa cụ C với bà C1 không phát sinh hiệu
lực, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuyên vô hiệu là có căn cứ.”
_______________________
1 Án lệ này do Hội đồng xét xử giám đốc thẩm gồm 05 Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.
Tệp tin văn bản
Mục lục
So sánh văn bản
...Đang xử lý dữ liệu...