PHỤ LỤC
CÔNG ƯỚC SỐ 105 VỀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG CƯỠNG BỨC (1957)
(Kèm theo Nghị quyết số 104/2020/QH14 của
Quốc hội ngày 08 tháng 6 năm 2020)
Lời nói đầu
Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động Quốc tế,
Được Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động Quốc tế triệu tập tại Geneva
ngày 05 tháng 6 năm 1957, trong kỳ họp thứ bốn mươi, và
Sau khi đã xem xét vấn đề lao động cưỡng bức là vấn đề thứ tư trong Chương
trình nghị sự kỳ họp, và
Sau khi đã ghi nhận những quy định của Công ước về Lao động cưỡng bức, năm
1930, và
Sau khi đã ghi nhận rằng Công ước năm 1926 về chế độ nô lệ đã quy định phải
có những biện pháp hữu ích để ngăn chặn lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc trở
thành những điều kiện tương tự như chế độ nô lệ và Công ước bổ sung năm 1956 về
việc xóa bỏ chế độ nô lệ, buôn bán nô lệ và các hình thức tương tự như chế độ
nô lệ quy định việc xóa bỏ hoàn toàn chế độ nô dịch do nợ nần và chế độ nông
nô, và
Sau khi đã ghi nhận rằng Công ước về Bảo vệ tiền lương (1949) quy định phải
trả lương đều đặn và cấm các cách trả lương mà khiến cho người lao động thực tế
không sao rời bỏ được công việc đang làm, và
Sau khi đã quyết định chấp thuận một số đề nghị về việc xóa bỏ một số hình
thức lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc vi phạm quyền con người như đã được ghi
trong Hiến chương Liên Hợp quốc và nêu trong Tuyên ngôn chung về nhân quyền, và
Sau khi đã quyết định rằng những đề nghị đó sẽ mang hình thức một Công ước
quốc tế,
thông qua ngày 25 tháng 6 năm 1957, Công ước dưới đây gọi là Công ước về
Xóa bỏ lao động cưỡng bức (1957)
Điều 1
Mọi Thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế phê chuẩn Công ước này cam kết
cấm lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc và không sử dụng bất kỳ hình thức lao động
cưỡng bức hoặc bắt buộc nào:
a) như là một biện pháp cưỡng chế hay giáo dục chính trị hoặc như một sự
trừng phạt đối với những ai đang có hoặc đang phát biểu chính kiến, hay ý kiến
chống đối về tư tưởng đối với trật tự chính trị, xã hội, hoặc kinh tế đã được
thiết lập;
b) như là một biện pháp huy động và sử dụng nhân công vào mục đích phát triển
kinh tế;
c) như là một biện pháp kỷ luật lao động;
d) như một sự trừng phạt đối với việc đã tham gia đình công;
e) như một biện pháp phân biệt đối xử về chủng tộc, xã hội, dân tộc hoặc
tôn giáo.
Điều 2
Mọi Thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế phê chuẩn Công ước này cam kết
sử dụng các biện pháp có hiệu quả nhằm xóa bỏ ngay và toàn bộ lao động cưỡng
bức hoặc bắt buộc, như đã quy định tại Điều 1 Công ước này.
Điều 3
Việc phê chuẩn chính thức Công ước này phải được đăng ký với Tổng Giám đốc
Văn phòng Lao động Quốc tế.
Điều 4
1. Công ước này chỉ ràng buộc những Thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế
đã đăng ký việc phê chuẩn của mình với Tổng Giám đốc Văn phòng Lao động Quốc
tế.
2. Công ước này sẽ bắt đầu có hiệu lực sau 12 tháng kể từ ngày hai Thành viên
đã đăng ký việc phê chuẩn của mình với Tổng Giám đốc.
3. Sau đó, Công ước này sẽ bắt đầu có hiệu lực đối với bất kỳ Thành viên
nào sau 12 tháng kể từ ngày việc phê chuẩn của Thành viên đó đã đăng ký với
Tổng Giám đốc.
Điều 5
1. Thành viên đã phê chuẩn Công ước này có thể bãi ước sau khi kết thúc
thời hạn 10 năm kể từ ngày Công ước bắt đầu có hiệu lực, bằng một văn bản đăng
ký việc bãi ước này cho Tổng Giám đốc Văn phòng Lao động Quốc tế. Việc bãi ước
này chỉ có hiệu lực sau một năm kể từ ngày đã đăng ký với Tổng Giám đốc.
2. Mỗi Thành viên đã phê chuẩn Công ước này và Thành viên chưa phê chuẩn
Công ước, trong vòng 01 năm sau khi kết thúc thời hạn 10 năm nói trong khoản
trên mà không thực hiện quyền bãi ước quy định tại Điều này, thì sẽ bị ràng
buộc trong một thời hạn 10 năm nữa rồi sau đó mới có thể bãi ước Công ước này
mỗi khi kết thúc thời hạn 10 năm theo những điều kiện quy định tại Điều này.
Điều 6
1. Tổng Giám đốc Văn phòng Lao động Quốc tế sẽ thông báo cho mọi Thành viên
của Tổ chức Lao động Quốc tế biết mọi trường hợp đăng ký phê chuẩn và bãi ước
mà các Thành viên đã truyền đạt cho Tổng Giám đốc.
2. Khi thông báo cho các Thành viên của Tổ chức Lao động Quốc tế về việc
đăng ký phê chuẩn của Thành viên thứ hai, Tổng Giám đốc sẽ lưu ý các Thành viên
về thời điểm mà Công ước bắt đầu có hiệu lực.
Điều 7
Để đăng ký theo Điều 102 của Điều lệ Liên Hợp quốc, Tổng Giám đốc Văn phòng
Lao động Quốc tế sẽ truyền đạt cho Tổng thư ký Liên Hợp quốc đầy đủ mọi chi
tiết về việc phê chuẩn và các văn bản về bãi ước đã được đăng ký theo các quy
định tại Điều trên.
Điều 8
Mỗi khi xét thấy cần thiết, Hội đồng Quản trị của Văn phòng Lao động Quốc
tế sẽ trình một bản báo cáo về tình hình hoạt động của Công ước này lên Hội
nghị toàn thể ILO và sẽ xem xét có cần đưa vào chương trình nghị sự của Hội
nghị toàn thể việc sửa đổi lại một phần hoặc toàn bộ Công ước này hay không.
Điều 9
1. Nếu Hội nghị toàn thể thông qua một Công ước mới sửa đổi lại một phần
hoặc toàn bộ Công ước này và nếu Công ước mới không quy định khác thì:
a) một Thành viên phê chuẩn một Công ước mới sửa đổi, thì sẽ đương nhiên
dẫn đến sự bãi ước ngay lập tức đối với Công ước này, bất kể quy định trong
Điều 5 bên trên, vào lúc Công ước mới sửa đổi đó bắt đầu có hiệu lực.
b) kể từ ngày Công ước mới sửa đổi bắt đầu có hiệu lực, các Thành viên sẽ
không tiếp tục phê chuẩn Công ước này nữa.
2. Trong mọi trường hợp, Công ước này sễ giữ nguyên hiệu lực về cả hình
thức và nội dung đối với những Thành viên đã phê chuẩn Công ước này mà chưa phê
chuẩn Công ước mới sửa đổi.
Điều 10
Cả hai bản tiếng Anh và tiếng Pháp của Công ước này đều có giá trị như
nhau.
C105 - Abolition of Forced Labour Convention, 1957 (No. 105)
Convention concerning the Abolition of Forced Labour
Preamble
The General Conference of the International Labour Organisation,
Having been convened at Geneva by the Governing Body of the International
Labour Office, and having met in its Fortieth Session on 5 June 1957, and
Having considered the question of forced labour, which is the fourth item
on the agenda of the session, and
Having noted the provisions of the Forced Labour Convention, 1930, and
Having noted that the Slavery Convention, 1926, provides that all necessary
measures shall be taken to prevent compulsory or forced labour from developing
into conditions analogous to slavery and that the Supplementary Convention on
the Abolition of Slavery, the Slave Trade and Institutions and Practices
Similar to Slavery, 1956, provides for the complete abolition of debt bondage
and serfdom, and
Having noted that the Protection of Wages Convention, 1949, provides that
wages shall be paid regularly and prohibits methods of payment which deprive
the worker of a genuine possibility of terminating his employment, and
Having decided upon the adoption of further proposals with regard to the
abolition of certain forms of forced or compulsory labour constituting a
violation of the rights of man referred to in the Charter of the United Nations
and enunciated by the Universal Declaration of Human Rights, and
Having determined that these proposals shall take the form of an
international Convention,
adopts this twenty-fifth day of June of the year one thousand nine hundred
and fifty-seven the following Convention, which may be cited as the Abolition
of Forced Labour Convention, 1957:
Article 1
Each Member of the International Labour Organisation which ratifies this
Convention undertakes to suppress and not to make use of any form of forced or
compulsory labour--
(a) as a means of political coercion or education or as a punishment for holding
or expressing political views or views ideologically opposed to the established
political, social or economic system;
(b) as a method of mobilising and using labour for purposes of economic
development;
(c) as a means of labour discipline;
(d) as a punishment for having participated in strikes;
(e) as a means of racial, social, national or religious discrimination.
Article 2
Each Member of the International Labour Organisation which ratifies this
Convention undertakes to take effective measures to secure the immediate and
complete abolition of forced or compulsory labour as specified in Article 1 of
this Convention.
Article 3
The formal ratifications of this Convention shall be communicated to the
Director-General of the International Labour Office for registration.
Article 4
1. This Convention shall be binding only upon those Members of the
International Labour Organisation whose ratifications have been registered with
the Director-General.
2. It shall come into force twelve months after the date on which the
ratifications of two Members have been registered with the Director-General.
3. Thereafter, this Convention shall come into force for any Member twelve
months after the date on which its ratification has been registered.
Article 5
1. A Member which has ratified this Convention may denounce it after the
expiration of ten years from the date on which the Convention first comes into
force, by an act communicated to the Director-General of the International
Labour Office for registration. Such denunciation shall not take effect until
one year after the date on which it is registered.
2. Each Member which has ratified this Convention and which does not,
within the year following the expiration of the period of ten years mentioned
in the preceding paragraph, exercise the right of denunciation provided for in
this Article, will be bound for another period of ten years and, thereafter,
may denounce this Convention at the expiration of each period of ten years
under the terms provided for in this Article.
Article 6
1. The Director-General of the International Labour Office shall notify all
Members of the International Labour Organisation of the registration of all
ratifications and denunciations communicated to him by the Members of the
Organisation.
2. When notifying the Members of the Organisation of the registration of
the second ratification communicated to him, the Director-General shall draw
the attention of the Members of the Organisation to the date upon which the
Convention will come into force.
Article 7
The Director-General of the International Labour Office shall communicate
to the Secretary-General of the United Nations for registration in accordance
with Article 102 of the Charter of the United Nations full particulars of all
ratifications and acts of denunciation registered by him in accordance with the
provisions of the preceding Articles.
Article 8
At such times as it may consider necessary the Governing Body of the
International Labour Office shall present to the General Conference a report on
the working of this Convention and shall examine the desirability of placing on
the agenda of the Conference the question of its revision in whole or in part.
Article 9
1. Should the Conference adopt a new Convention revising this Convention in
whole or in part, then, unless the new Convention otherwise provides:
(a) the ratification by a Member of the new revising Convention shall ipso
jure involve the immediate denunciation of this Convention, notwithstanding the
provisions of Article 5 above, if and when the new revising Convention shall
have come into force;
(b) as from the date when the new revising Convention comes into force this
Convention shall cease to be open to ratification by the Members.
2. This Convention shall in any case remain in force in its actual form and
content for those Members which have ratified it but have not ratified the
revising Convention.
Article 10
The English and French versions of the text of this Convention are equally
authoritative.