Quyền phát hành trái phiếu để huy động vốn của công ty cổ phần
375 lượt xem
Công ty cổ phần có quyền phát hành trái phiếu để huy động
vốn hay không?
Ban biên tập
24-09-2020
Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của tổ chức phát hành.[1]
Trong những năm gần đây, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có bước phát triển mạnh. Thông qua đó, giúp các doanh nghiệp huy động vốn để phát triển sản xuất - kinh doanh, giảm dần sự phụ thuộc vào kênh tín dụng ngân hàng; hỗ trợ các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực huy động vốn dài hạn để đáp ứng các chỉ tiêu an toàn vốn; giảm bớt áp lực huy động vốn cho hệ thống ngân hàng thương mại ; định hướng được các khoản đầu tư trung, dài hạn, thay vì gửi tiền tiết kiệm ngắn hạn. Theo thống kê, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp cuối năm 2017 đạt 6,29% GDP, cuối năm 2018 đạt 9,01% GDP, cuối tháng 11/2019 đạt 10,93% GDP; trong đó, quy mô trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đạt 10,37% GDP, gấp hơn 06 lần so với năm 2011.[2]
Theo Điều 127 của Luật Doanh nghiệp năm 2014, công ty cổ phần có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.[3]
Theo Điều 4 của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04/12/2018 của Chính phủ Quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu doanh nghiệp bao gồm các loại sau:
- Trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi, và các nghĩa vụ khác (nếu có) của doanh nghiệp đối với nhà đầu tư sở hữu trái phiếu.
- Trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ là trái phiếu doanh nghiệp được phát hành cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc Internet.
- Trái phiếu doanh nghiệp xanh là trái phiếu doanh nghiệp được phát hành để đầu tư cho các dự án bảo vệ môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường.
- Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu do công ty cổ phần phát hành, có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của doanh nghiệp phát hành theo điều kiện, điều khoản đã được xác định trong phương án phát hành trái phiếu.
- Trái phiếu có bảo đảm là loại trái phiếu được bảo đảm thanh toán toàn bộ hoặc một phần gốc, lãi khi đến hạn bằng tài sản của doanh nghiệp phát hành hoặc tài sản của bên thứ ba; hoặc được bảo lãnh thanh toán của tổ chức tài chính, tín dụng có chức năng cung cấp dịch vụ bảo lãnh thanh toán.
- Trái phiếu kèm theo chứng quyền: là loại trái phiếu được phát hành cùng với việc phát hành chứng quyền, cho phép nhà đầu tư sở hữu trái phiếu được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo điều kiện, điều khoản đã được xác định trước.
Đối với trái phiếu thông thường, nhà đầu tư (có thể là cá nhân, tổ chức) mua trái phiếu công ty trở thành chủ nợ của công ty và công ty trở thành con nợ của họ. Đáo hạn trái phiếu, có thể là sau một, hai năm hoặc lâu hơn, công ty thanh toán cho người sở hữu trái phiếu tiền gốc và khoản lãi được xác định trước hoặc được tính theo phương pháp được xác định trước. Còn trái phiếu chuyển đổi được chuyển đổi thành cổ phần trong thời hạn (hoặc vào thời điểm) và với điều kiện được xác định trước. Việc chuyển đổi trái phiếu thành cổ phần dẫn đến hệ quả tăng vốn điều lệ và vì vậy công ty phải đăng ký thay đổi vốn điều lệ.[4]
[2] “Siết” điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp (2020), https://baodautu.vn/siet-dieu-kien-phat-hanh-trai-phieu-doanh-nghiep-d114628.html, Báo Đầu tư điện tử - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, truy cập ngày 04/4/2020.
[3] Lưu ý, quyền phát hành trái phiếu không chỉ dành riêng cho công ty cổ phần mà còn dành cho công ty trách nhiệm hữu hạn.
[4] Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình pháp luật về chủ thể kinh doanh, Bùi Xuân Hải (Chủ biên), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 272.
Lưu ý : Việc đưa ra ý kiến tư vấn của Trogiupluat căn cứ vào các quy định của pháp luật tại thời điểm tư vấn và chỉ mang tính chất tham khảo. Khi tham khảo, người dùng cần kiểm tra lại quy định của pháp luật hiện hành để đảm bảo tính chính xác.