Quy định về trách nhiệm bồi thường của NSDLĐ khi NLĐ bị tai nạn lao động dẫn đến tử vong như thế nào?

141 lượt xem
Bên tranh chấp 1: Chị Trần Thị M, sinh năm 1982

Bên tranh chấp 2: Công ty ĐN

Bên liên quan khác: Công ty PT

Ngày 12/01/2016, anh T trong quá trình đi công tác bị va chạm với ô tô dẫn đến tử vong. Thanh tra sở lao động kết luận anh T bị tai nạn lao động và hoàn toàn do lỗi của tài xế ô tô. Ngày 13/5/2016, Công ty ĐN đồng ý bồi thường cho chị M – vợ anh T 30 tháng lương của anh nhưng chị M không đồng ý do Công ty chia làm nhiều lần thanh toán. Sau đó, Công ty ĐN thay đổi ý định, chỉ bồi thường cho chị M 12 tháng lương vì cho rằng anh T cũng có lỗi dẫn đến tai nạn.

Vì vậy, chị M khởi kiện yêu cầu Công ty ĐN phải bồi thường cho chị và các con chung của chị với anh T một khoản bằng 30 tháng lương của anh cùng với lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ của Công ty ĐN.

1. Yêu cầu về mức bồi thường của chị M có được Tòa án chấp nhận không?

2. Công ty ĐN có phải trả lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ như yêu cầu của chị M không?

3. Ngoài các khoản từ Công ty chi trả, Chị M và các con của anh T còn được hưởng những chế độ gì?

Ban biên tập
15-01-2021

1. Căn cứ khoản 1 Điều 39 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015, trong trường hợp người lao động bị tai nạn lao động khi thực hiện nhiệm vụ mà do lỗi của người khác gây ra thì người sử dụng lao động vẫn phải bồi thường cho người lao động theo quy định tại khoản 4 Điều 38 Luật này. Đối với trường hợp của anh T, anh đã tử vong do tai nạn lao động trên đường đi công tác do lỗi của tài xế ô tô, vì vậy Công ty ĐN phải bồi thường cho chị M và các con anh T ít nhất 30 tháng tiền lương. Việc Công ty ĐN viện dẫn lý do anh T cũng có một phần lỗi để yêu cầu chỉ bồi thường 12 tháng lương là không có cơ sở. Vì việc xác định lỗi phải căn cứ vào kết luận điều tra của cơ quan chuyên ngành mà ở đây Thanh tra sở lao động đã kết luận anh T bị tai nạn lao động hoàn toàn do lỗi của tài xế ô tô. Do đó, có căn cứ để Tòa án chấp nhận yêu cầu về mức bồi thường của chị M.

2. Đối với yêu cầu của chị M về lãi suất phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ của Công ty ĐN, kể từ ngày chị M có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty ĐN không thực hiện bồi thường số tiền nêu trên thì hàng tháng Công ty ĐN còn phải trả cho chị M số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 428 Bộ luật Dân sự 2015.

3. Căn cứ Điều 66 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, vì anh T là người lao động đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đến thời điểm anh chết, vì vậy người lo mai táng cho anh T sẽ được nhận một khoản trợ cấp mai táng bằng 10 lần mức lương cơ sở tại thời điểm anh T chết.

Ngoài ra, các con chưa đủ 18 tuổi của anh T còn được nhận trợ cấp tuất hằng tháng theo quy định tại Điều 67 hoặc trợ cấp một lần theo Điều 69 nếu có nguyện vọng và đủ điều kiện theo quy định tại Luật này dành cho thân nhân người lao động chết do tai nạn lao động. Còn đối với vợ anh T, chị M chỉ được hưởng trợ cấp tuất nếu chị M có thu nhập hằng tháng thấp hơn mức lương cơ sở hoặc không có thu nhập và từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc dưới 55 tuổi nhưng bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.

Thêm vào đó, căn cứ Điều 53 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 chị M và các con anh T còn được cơ quan bảo hiểm xã hội trợ cấp một lần bằng 36 lần mức lương cơ sở tại tháng anh T chết.

Lưu ý : Việc đưa ra ý kiến tư vấn của Trogiupluat căn cứ vào các quy định của pháp luật tại thời điểm tư vấn và chỉ mang tính chất tham khảo. Khi tham khảo, người dùng cần kiểm tra lại quy định của pháp luật hiện hành để đảm bảo tính chính xác.

Bình luận