Quy định về đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thông qua tiền lương như thế nào?
210 lượt xem
Bên tranh chấp 1: Bà Trần Thị Kim D (1993)
Bên tranh chấp 2: Công ty TNHH L (“Công ty L”)
Ngày
01/9/2015, bà D và Công ty L ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn,
với mức lương: Ngày 26/8/2015 gồm: Lương cơ bản 3.450.000 đồng/tháng và lương
thỏa thuận 7.000.000 đồng/tháng. Tháng 01/2016 Lương cơ bản 3.800.000 đồng/tháng
và lương thỏa thuận 7.000.000 đồng/tháng.
Theo
sự thỏa thuận trên hợp đồng đã ký ngày 01/9/2015 giữa bà D và công ty thì mức
đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên mức lương căn bản
và theo thông báo lương ngày 26/8/2015 của Công ty trách nhiệm hữu hạn L thì
“Lương thỏa thuận: Là mức thu nhập hàng tháng của nhân viên, bao gồm lương cơ bản,
phụ cấp trách nhiệm và các khoản bồi dưỡng lao động, đảm bảo trách nhiệm hoàn
thành một cách hiệu quả các công việc mà công ty giao… nhưng chưa bao gồm các
khoản thưởng, phạt”;
Ngày
05/01/2016, Công ty L đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật với
bà D. Đến ngày 20/7/2016, bà D nhận được Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động
số 02/QĐNV-16 ngày 06/2/2016.
Nay
bà D khởi kiện yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn L nhận bà lại tiếp tục làm
việc và đóng tiền BHXH, BHYT, BHTN trong những tháng bà D không được làm việc từ
19/2/2016 đến 8/9/2017 với mức lương đóng 7.000.000 đồng/tháng.
1.
Tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của bà D từ ngày 19/2/2016 đến ngày 8/9/2017 được
xác định như thế nào?
2.
Công ty L chịu trách nhiệm gì về bảo hiểm xã hội của bà D khi đơn phương chấm dứt
Hợp đồng lao động trái pháp luật?
3.
Yêu cầu của bà D được giải quyết như thế nào?
Ban biên tập
13-01-2021
1. Theo quy định tại khoản 2 Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, khoản 1 Điều 17 Nghị định 115/2015/NĐ-CP thì đối với người lao động đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 31/12/2017 là mức lương và phụ cấp lương theo quy định của pháp luật về lao động ghi trong hợp đồng lao động.
Ngoài ra, theo sự thỏa thuận trên hợp đồng đã ký ngày 01/9/2015 giữa bà D và Công ty L thì mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên mức lương căn bản và theo thông báo lương ngày 26/8/2015 của Công ty thì: “Lương thỏa thuận: Là mức thu nhập hàng tháng của nhân viên, bao gồm lương cơ bản, phụ cấp trách nhiệm và các khoản bồi dưỡng lao động, đảm bảo trách nhiệm hoàn thành một cách hiệu quả các công việc mà công ty giao… nhưng chưa bao gồm các khoản thưởng, phạt” mà mức lương từ tháng 01/2016 gồm: Lương cơ bản 3.800.000 đồng/tháng và lương thỏa thuận 7.000.000 đồng/tháng.
Do đó, mức lương đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của bà D từ ngày 19/2/2016 cho đến 8/9/2017 được xác định là 7.000.000 đồng/tháng.
2. Hành vi của Công ty L khi buộc bà D nghỉ việc trái pháp luật đã khiến cho việc đóng bảo hiểm xã hội của bà bị chậm trễ, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Bên cạnh đó, hành vi trên của Công ty L cũng đã vi phạm về trách nhiệm của người sử dụng lao động quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bà D.
Do đó, Công ty L ngoài việc phải đóng đủ số tiền chậm đóng và bị xử lý của pháp luật thì còn phải trả tiền lãi phát sinh theo quy định tại khoản 3 Điều 122 Luật bảo hiểm xã hội 2014 một số tiền bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng.
3. Đối với yêu cầu của bà D từ những căn cứ tại khoản 2 Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, khoản 1 Điều 17 Nghị định 115/2015/NĐ-CP, mục 2.1 khoản 2 Điều 6 Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam: xác định mức lương để đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà D kể từ tháng 19/2/2016 đến 8/9/2017 với mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội là 7.000.000 đồng/tháng là có cơ sở và được chấp nhận.
Lưu ý : Việc đưa ra ý kiến tư vấn của Trogiupluat căn cứ vào các quy định của pháp luật tại thời điểm tư vấn và chỉ mang tính chất tham khảo. Khi tham khảo, người dùng cần kiểm tra lại quy định của pháp luật hiện hành để đảm bảo tính chính xác.