Mức hưởng chế độ thai sản của người cha khi mẹ không tham gia BHXH được tính như thế nào? Cơ quan bảo hiểm xã hội không gửi văn bản giải quyết chế độ thai sản bị xử lý như thế nào? Nếu NSDLĐ không có giấy trả lời kết quả hưởng BHXH thì có bị xử phạt hành chính không?

223 lượt xem
Anh Lê Đức B đang làm việc tại Công ty TNHH M.H. Anh B được Công ty đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ từ tháng 11/2018 đến nay. Tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của anh B đều ổn định với số tiền là 4.730.000 đồng/tháng.

Tháng 07/2020, vợ anh B sinh được một con và sinh thường. Anh B đã nghỉ việc 05 ngày để chăm sóc vợ con. Vợ anh B không tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Vì vậy, người đại diện của Công ty TNHH M.H đã làm thủ tục để anh B được hưởng chế độ thai sản khi vợ sinh con.

Ngày 04/8/2020, tài khoản của Công ty TNHH M.H được nhận số tiền thai sản của anh B là 977.431 đồng.

Nhận thấy số tiền 977.431 đồng không đúng cho nên đại diện Công ty TNHH M.H đề nghị cơ quan bảo hiểm xã hội gửi trả văn bản giải quyết chế độ thai sản của anh B. Tuy nhiên, đến nay, cơ quan bảo hiểm xã hội vẫn chưa gửi cho Công ty M.H văn bản giải quyết chế độ thai sản của anh B.

1.         Cơ quan bảo hiểm xã hội thanh toán tiền nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho anh B số tiền 977.431 đồng là đúng hay không?

2.         Cơ quan bảo hiểm xã hội không gửi văn bản giải quyết chế độ thai sản của anh B là đúng không?

3.         Trường hợp không có tờ trả kết quả, sau này khi cơ quan thanh tra tiến hành thanh, kiểm tra hồ sơ liên quan đến bảo hiểm xã hội tại Công ty, thì Công ty có thể bị xử phạt hành chính đúng không?

Ban biên tập
18-01-2021

1. Cơ quan bảo hiểm xã hội thanh toán tiền nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho anh B số tiền 977.431 đồng là đúng hay không?

Vì vợ anh B không tham gia bảo hiểm xã hội nên theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, anh sẽ là người được giải quyết hưởng chế độ thai sản. Căn cứ khoản 2 Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định về mức hưởng thai sản của người lao động tại khoản 2 Điều 34 của Luật này như sau:

- Mức hưởng một ngày bằng mức hưởng chế độ thai sản theo tháng chia cho 24 ngày. Theo khoản 1 Điều 39, mức hưởng một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.

Anh tham gia bảo hiểm từ tháng 11/2018 đến khi vợ sinh vào tháng 07/2020, như vậy mức hưởng của anh được tính từ 06 tháng trước khi vợ sinh, tức là từ tháng 01/2020 đến tháng 06/2020. Đồng thời, vợ anh sinh thường nên anh sẽ được nghỉ chế độ 05 ngày theo điểm a khoản 2 Điều 34 Luật này. Như vậy, mức hưởng bảo hiểm của anh sẽ là: (100% x 4.730.000)/24 x 5 = 985.416 VNĐ

Do đó, cơ quan bảo hiểm chỉ trả cho anh 977.431 VNĐ là sai quy định.

2. Cơ quan bảo hiểm xã hội không gửi văn bản giải quyết chế độ thai sản của anh B là đúng không?

Căn cứ khoản 3 Điều 102 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm giải quyết và tổ chức chi trả bảo hiểm xã hội cho người lao động. Việc chi trả của cơ quan phải ban hành kèm với 1 quyết định giải quyết, mục đích nhằm minh bạch các khoản được giải quyết cho người lao động. Do đó, việc BHXH không gửi kèm văn bản giải quyết là không đúng, ảnh hưởng quyền lợi người lao động, do đó việc cty yêu cầu BHXH gửi văn bản giải quyết chế độ là hợp lý và việc cơ quan BHXH không trả lời là không đúng.

3. Trường hợp không có tờ trả kết quả, sau này khi cơ quan thanh tra tiến hành thanh, kiểm tra hồ sơ liên quan đến bảo hiểm xã hội tại Công ty, thì Công ty có thể bị xử phạt hành chính đúng không?

Trong trường hợp này, Công ty sẽ không bị xử phạt hành chính vì việc Công ty không xuất trình được giấy tờ trả kết quả là do lỗi của Cơ quan BHXH, Công ty đã gửi văn bản yêu cầu cơ quan BHXH trả tờ kết quả cho mình nhưng không nhận được câu trả lời. Như vậy, Công ty đã làm đủ, đúng trách nhiệm của mình và việc không có tờ trả kết quả không do lỗi của Công ty cũng như Công ty không có cách nào khắc phục được vấn đề đó. Vì vậy, không thể xử phạt hành chính Công ty vì vấn đề này.

Lưu ý : Việc đưa ra ý kiến tư vấn của Trogiupluat căn cứ vào các quy định của pháp luật tại thời điểm tư vấn và chỉ mang tính chất tham khảo. Khi tham khảo, người dùng cần kiểm tra lại quy định của pháp luật hiện hành để đảm bảo tính chính xác.

Bình luận